PHÍA TÂY TRƯỜNG SƠN
—★—
Tác giả: Vũ Hùng
Phía tây Trường Sơn là truyện dài của nhà văn Vũ Hùng, do
Nhà xuất bản Kim Đồng xuất bản lần đầu năm 1977.
Đây là câu chuyện về một tiểu đội bộ đội tình nguyện Việt
Nam gồm 3 chiến sỹ, trong những năm kháng chiến chống
Pháp được cử sang Lào học nghề quản tượng (nuôi dạy voi).
Thực hiện nhiệm vụ, họ đã vượt Trường Sơn, đi vào nước
Lào, làm quen với thiên nhiên, phong tục tập quán, nét văn
hóa và con người xứ sở triệu voi. Qua đó, chúng ta cảm nhận
người Lào thật đôn hậu, hiền lành. Một đất nước của sự thanh
bình, yên lặng – dù đang ở thời kỳ chiến tranh.
Đó là ấn tượng không thể nào quên về nét e ấp, dễ thương
và đầy băn khoăn của cô gái Lào khi cho chàng trai chiến sỹ
người Việt Nam vào phòng riêng của mình ẩn nấp trước sự
truy tìm của giặc Pháp. Theo phong tục người Lào, không ai
được phép vào phòng một cô gái chưa có chồng. Trong căn
phòng ấy có những đồ vật gì? Cô gái ấy đã nói gì khi hai người
chia tay nhau?…
Đó là tập tục phóng sinh, ăn tết của người Lào, là lễ đầy
tháng một em bé, là những buổi “ăn chua” giữa các chàng trai
và cô gái ở làng Vông Xây ….
Đặc biệt, Phía tây Trường Sơn là một công trình khoa học
sinh động và đồ sộ, với biết bao tri thức thú vị về loài voi. Hóa
ra loài vật khổng lồ có phần cục mịch, chậm chạp đó lại hết sức
thông minh, dũng cảm, trung thành và biết sống tình nghĩa
với con người. Tiểu sử của mỗi con voi được ghi ở đâu?
Câu chuyện về Ông Một, một con voi cô độc lang thang
trong rừng suốt nhiều chục năm? Đây là con voi nhà hay voi
rừng? Tại sao cứ mỗi năm một lần ông Một lại về làng, đi ra
khu vườn rồi u uất rống kêu, mắt nhòa lệ rồi lầm lũi bỏ đi?
Thật không thể nào quên!
Một cuộc săn voi diễn ra như thế nào? Cuộc chiến đấu sinh
tồn giữa đàn voi rừng và đàn voi nhà …
Hãy cùng đọc và cảm nhận. Ta sẽ thấy thêm yêu quý đất
nước và con người Lào.
Chương I
Người sĩ quan tham mưu trải tấm bản đồ trên mặt một
phiến đá rộng nằm dưới một lùm cây rừng. Ba chiến sĩ vây
quanh ông: tiểu đội trưởng Hưng và hai đội viên Sơn, Đức. Họ
đều trẻ măng, tiểu đội trưởng Hưng lớn tuổi nhất cũng chưa
quá hai mươi.
Hôm trước, họ được lệnh thanh toán sáu tháng tiền ăn rồi
mang ba lô lên trung đoàn bộ. Có lệnh phải đi gấp. Ai cũng băn
khoăn, dò đoán. Có lẽ về khu dự một khóa quân chính? Hay
vượt Trường Sơn đi chuẩn bị chiến trường?
Mọi dự đoán của họ đều sai. Một nhiệm vụ khó khăn và bất
ngờ đang chờ họ.
Trung đoàn quân tình nguyện Việt Nam tại Trung Lào phải
thường xuyên qua lại Trường Sơn, khi thì về căn cứ, khi thì
sang vùng du kích của anh em Pa-thét Lào. Trên những con
đường đầy dốc đèo hiểm trở, không có phương tiện vận tải nào
thích hợp hơn voi. Anh em Lào tặng cho trung đoàn ba con voi.
Hưng cùng hai đội viên được cử đi học điều khiển và giong
chúng về.
Chính “ông trung đoàn” đã trực tiếp gặp họ. Ông nói:
– Trung đoàn thành lập một đội voi tải. Các đồng chí sẽ
thành những quản tượng đầu tiên của trung đoàn ta. Học
xong, các đồng chí sẽ về huấn luyện cho nhiều người khác.
Các chiến sĩ lặng im. Lệnh đột ngột quá. Có lẽ không ai
thích làm quản tượng vì đã ai biết quản tượng là gì đâu. Ở đơn
vị với anh em, sống chết vui buồn có nhau đã quen nên chẳng
ai muốn đi xa. Nhưng các chiến sĩ vốn yêu mến người chỉ huy
và quen phục tùng mệnh lệnh. Họ sẵn sàng nhận mọi nhiệm
vụ, chỉ mong khi đánh giặc xong, ai nấy được trở lại với những
công việc bình thường của mình. Thế là họ ra về, chuẩn bị lên
đường.
Một sĩ quan tham mưu phổ biến nhiệm vụ cho họ:
– Đây, các cậu phải vượt dãy núi này – ông nói, tay lượn theo
dãy núi và những cánh rừng được vẽ thành những vân màu
xanh xám trên bản đồ – Sẽ có một người dẫn đường đưa các
cậu tới khu du kích của anh em Lào. Đoạn đường này không có
bản làng nhưng sang đến phía tây Trường Sơn thì đường đã dễ
đi. Anh em Lào sẽ đưa các cậu xuống làng Vông-xay dưới Nam
Lào. Người làng Vông-xay nuôi voi như nuôi trâu, các cậu sẽ
học thành quản tượng ở đó.
Người sĩ quan tham mưu chỉ tay vào một chấm đen. Bản
Vông-xay nằm trong vùng ba biên giới, phía nam giáp Cam-puchia và phía đông giáp vùng Tây Nguyên của Việt Nam.
Để tránh đồn địch và những đoạn đường bị chúng kiểm
soát, các chiến sĩ phải vạch lối đi trong rừng già Trường Sơn.
Theo vệt tay của người sĩ quan tham mưu, các chiến sĩ thấy
đường họ đi chỉ là những nét đứt đoạn giữa những vân núi.
Đỉnh núi được ghi bằng các chiều cao, ngọn 1270, ngọn 1420,
ngọn 1035… Từ phía căn cứ, đường lên ngày một dốc nhưng
đến biên giới thì xuống thấp dần.
Người sĩ quan tham mưu lấy trong xà cột một chiếc địa bàn
đặc biệt. Chiếc địa bàn này có một bánh xe và một mặt số. Ông
lăn bánh xe theo các vân núi, chiều dài đoạn đường hiện lên
trên mặt số và được đối chiếu với tỷ lệ xích của bản đồ.
Từ phía đông sang đến phía tây Trường Sơn: hơn một trăm
cây số đường hiểm trở, lượn theo các ngách núi. Trên thực địa,
đường lên dốc, xuống vực, dài ít ra cũng gấp ba bốn lần. Còn từ
biên giới xuống đến làng Vông-xay, đường bằng phẳng hơn, dài
ba trăm tám mươi cây. Nhưng đó chỉ là ước toán vì đường trên
bản đồ có bao giờ phản ánh đúng đường trên thực địa, dù bản
đồ đó là bản đồ tham mưu.
Các chiến sĩ phải chuẩn bị lương ăn hai mươi ngày để vượt
Trường Sơn. Sang đến khu du kích Lào, anh em bộ đội Lào sẽ
lo ăn uống cho họ. Họ được phép, trong những trường hợp
thật cần thiết, vay lương thực của dân và làm giấy biên nhận.
Sau này, đơn vị sẽ mang các đồ dùng như dao, rựa, thuổng,
cuốc, nồi đồng, muối… lên trả nợ.
Tiểu đội trưởng Hưng được chỉ định là người phụ trách.
Anh có nhiệm vụ đưa các chiến sĩ đến làng Vông-xay, tới nhà
một bác dạy voi tên là Bun-mi.
– Chúng tôi sẽ học ở làng Vông-xay bao lâu? – Tiểu đội
trưởng Hưng hỏi.
– Nếu học nhanh thì về sớm. Có thể chừng một năm hoặc
một năm rưỡi.
– Trời! Sao lâu thế?
– Thế đấy! Anh em Lào bảo như vậy đã là nhanh. Chỉ riêng
làm quen với lũ voi cũng đã phải mất hàng tháng. Thế mà lại
còn phải học điều khiển chúng, dạy chúng quen với đường xa,
quen súng đạn.
Sau khi trao nhiệm vụ và căn dặn các chiền sĩ phải giong
đàn voi về căn cứ an toàn, người sĩ quan tham mưu đưa cho
mỗi người một ít đồng “kíp” làm tiền giắt lưng: Ông còn trao
cho mỗi người một cuốn sách “Tự học tiếng Lào”.
Các chiến sĩ giở thoáng một vài trang, xem qua các tấm ảnh.
Ảnh một vùng trời nước mênh mông với một đàn voi và một
bờ xa, dưới đề “Hoàng hôn trên Nậm Khoỏng”*. Ảnh những
cây đại đầy hoa trước một ngôi nhà sàn xinh xắn, đề “Mùa hoa
Chămpa”*…
– Các cậu phải cố học mỗi ngày dăm câu – người sĩ quan
tham mưu căn dặn – Mọi việc bây giờ phải lo liệu lấy, không
thể mỗi lúc lại đi tìm người phiên dịch như khi còn ở đơn vị.
Có gì không hiểu thì cứ hỏi người đưa đường. Làm thế nào để
sau khi vượt Trường Sơn, các cậu đã có thể tự hỏi đường và
tìm nơi ăn ngủ.
Các chiến sĩ bắt tay ngay vào công việc chuẩn bị. Mỗi người
mang theo mười lăm cân gạo, đựng trong một bao to để vác vai
và một bao nhỏ buộc quanh bụng. Họ rang thịt với muối, đúc
đầy ba ống tre làm thức ăn khô. Mỗi người được phát hai lọ
“mắm kem” – một thứ nước mắm thơm phức, đã được cô đặc
để tiện mang đi đường, – một ít vừng lạc để ăn thay mỡ cùng
vài chục bánh đường đen, thứ đường vẫn bán ở chợ làm nhân
bánh trôi nước. Ngoài ra họ còn được phát bản đồ, địa bàn, bật
lửa và đá lửa, thuốc phòng sốt rét…, nghĩa là đủ mọi thứ cần
thiết cho người đi đường xa trong rừng.
Các chiến sĩ chia lương thực và các đồ dùng thành bốn phần
đều nhau: ba phần cho họ, còn một phần dành cho người đưa
đường.
Hai hôm sau, người sĩ quan tham mưu dẫn một ông già đến
lán các chiến sĩ.
– Đây là bọ Cao – ông giới thiệu.
Ông già Cao được chính quyền địa phương cử đến dẫn họ
sang khu du kích Lào, theo một con đường bí mật. Hồi Pháp
thuộc, ông già thường đi lại trên con đường này: hằng năm ông
vẫn cùng người làng gánh muối sang đổi trâu bò ở các làng Lào
rồi đem về bán dưới đồng bằng.
Ông già Cao đã trên sáu mươi tuổi nhưng còn tráng kiện,
nhanh nhẹn. Ông thuộc lứa người hoạt động, xông pha nắng
gió nhiều nên lâu già. Vóc người ông cao lớn, râu tóc còn đen,
thỉnh thoảng mới thấy một vài sợi tóc bạc. Ông quấn khăn đầu
rìu bằng nhiễu tím, mặc một bộ quần áo nâu đã cũ, ngoài phủ
bộ cánh nái nhuộm vỏ đà. Hành lý của ông gói gọn trong một
tấm vải đeo trên vai, tấm vải đồng thời dùng làm chăn. Ông
mang theo một con dao rừng to bản, một cây ná đã lên nước
nâu bóng và một ống tên đầy.
Công việc đầu tiên của ông già Cao là giúp kinh nghiệm đi
đường cho các chiến sĩ. Tiểu đội trưởng Hưng báo cáo tình
hình chuẩn bị của họ. Nghe xong, ông già cứ lắc đầu hoài:
– Chưa được! Thế thì chưa được!
Đoạn đường vượt Trường Sơn tuy hoang vu, không làng
bản nhưng không đáng lo. Các chiến sĩ chỉ cần đem theo gạo
muối, còn mọi thức ăn đều có thể tìm được ở dọc đường.
Họ có thể kiếm thịt tươi trong rừng: trước khi đi ngủ chỉ
cần đặt vài cái bẫy nhỏ trên lối xuống bến nước là đến sáng ít
ra cũng được một con chồn, con nhím hoặc một chú cheo cheo.
Nếu không muốn đặt bẫy thì sau bữa ăn chiều có thể soi đuốc
đi bắt cua hoặc chém cá. Những con cá rất lớn ở các suối rừng,
chưa hề bị săn bắt, cứ thấy ánh đuốc là lượn lờ tìm đến. Còn
rau tươi thì không thiếu gì: ở những đầm lầy dưới thung lũng
có rau súng, rau ngổ, củ ấu, ven suối có nấm, rau ớt, mũi mác,
cỏ phổng, cải xoong, rau đay, ở những nơi khô cạn hoặc trên
đồi có me rừng, bầu đất dại, dây bìm, chua ngút, cườm cườm; ở
ven rừng và trên các nương rẫy bỏ hoang có mào gà trắng, cúc
dại, mảnh cộng, lạc tiên, rau tàu bay…, và ngay trong rừng,
dưới bóng các cây khác, cũng có rau ngon như tai voi, móng
ngựa, chua kham, môn thục…
Theo ông già Cao thì cần chú ý đến đoạn đường bên phía tây
Trường Sơn hơn. Đường bên ấy nhiều làng bản, dễ kiếm thức
ăn nhưng phải đề phòng địch phục kích hoặc càn quét. Họ có
thể lạc đường và dù sao nơi đó cũng là “đồng đất nước người”,
các chiến sĩ chưa quen “thung thổ” lại chưa thạo tiếng.
Ông già hỏi:
– Anh em mang theo mỗi người bao nhiêu viên đá lửa, bao
nhiêu cân muối?
– Mỗi người mười viên – tiểu đổi trưởng Hưng trả lời – còn
muối thì phần lớn đã trộn vào thịt làm thức ăn khô cho tiện.
– Không được! – Ông già lại lắc đầu.
Ông bảo các chiến sĩ phải bỏ bớt gạo để mang thêm ít nhất
là mười cân muối. Sang đến các bản làng bên phía tây Trường
Sơn, có muối là khắc có gạo. Một cân muối có thể đổi được hai
mươi cân gạo nếp, lại vừa giúp anh em du kích Lào khỏi phải
xuống mua muối ở các chợ xa.
Ngoài ra ông già khuyên các chiến sĩ hãy đem sinh hoạt phí
xuống chợ mua các hàng lặt vặt như đá lửa, kim chỉ, gương
lược… Đường bên phía tây Trường Sơn đi qua nhiều vùng xa
chợ, ở đó người dân không quen tiêu tiền và không quen mua
bán. Cứ vài tháng lại có người thồ hàng trên lưng voi tới làng.
Họ đổi gà lợn, thóc gạo, da thú và các lâm sản quý lấy đồ dùng
hằng ngày và vải vóc. Một bát muối hoặc dăm viên đá lửa đổi
một đôi gà. Vài sải vải, kèm thêm ít túm chỉ màu và cái gương
cái lược cho các cô gái là đủ để đổi một con lợn ba bốn yến.
Nghe lời ông già, tiểu đội trưởng Hưng xin lĩnh thêm muối
và cử người xuống chợ mua hàng. Sáu tháng sinh hoạt phí của
họ chẳng được là bao: tiểu đội trưởng Hưng mỗi tháng được
phát một khoản tiền tiêu vặt tương đương với giá bốn cân gạo,
còn các chiến sĩ thì lĩnh ba cân. Họ dồn hết tiền, mua thêm
được dăm chục viên đá lửa, một ít đồ dùng khác và vài chục
vuông vải. Các chiến sĩ thấy thế ít quá nhưng ông già Cao bảo
là đã tạm đủ cho chuyến đi, có thể còn dư đôi chút để xuống
làm quà cho người làng Vông-xay.
– Anh em đã có một kho đồ quý trong tay rồi – ông già vui vẻ
nói – Anh em có thể đi mấy tháng trên đường mà không gặp
khó khăn.
Trên đất Lào, người đi đường xa với cái túi rỗng cũng có thể
đến mọi nơi. Người Lào mến khách và không vụ lợi, nhiều khi
nuôi khách hàng tháng trong nhà. Họ làm việc đó vì lòng nhân
đức, không đắn đo, không mong được đền ơn dù họ cũng rất
nghèo. Chỉ cần bước lên sàn là đã được họ mời ăn, khách lỡ
đường không cần phải cầu xin. Khi ra đi, chỉ cần vài lời cảm ơn
hoặc nếu có một vật gì đó tặng cho họ thì họ đã lấy làm sung
sướng lắm.
Các chiến sĩ bỏ bớt gạo lại. Tuy vậy mỗi người đã mang trên
vai đến mấy chục cân. Ngoài ra họ còn phải mang vũ khí: tiểu
đội trưởng Hưng đeo một cây súng trường cũ kỹ và dài nghêu,
các chiến sĩ khác đeo mỗi người hai quả lựu đạn bên sườn.
Những đồ vật mua được cũng chia đều làm bốn, mỗi người giữ
một phần phòng khi lạc nhau còn có cái dùng.
Chuẩn bị xong, đoàn người lên đường. Hôm ấy là một ngày
giữa mùa xuân năm 1947.
*
Trời mới tang tảng sáng, Hưng đã cựa mình tỉnh dậy. Nằm
trên nệm lá khô anh ngỡ mình vẫn đang ở giữa làng quê. Gió rì
rào chung quanh, như bên những khóm tre làng. Một con gà
vỗ cánh gáy đâu đó, trong những bờ bụi còn vương vất bóng
đêm. Cũng giống ở dưới làng, những con gà khác liền đua nhau
gáy theo, tiếng nọ nối tiếp tiếng kia tưởng như đang lan tới các
chòm xóm xa gần.
Nghe lũ gà gáy sớm, bầy vượn liền lên tiếng. Từ trên ngọn
cây và vách đá, những tiếng hú trầm bổng cùng nổi vang dội.
Buổi sớm vắng lặng bỗng trở nên náo nhiệt.
Cảm giác mà tiếng gà đưa tới đã tan: Hưng nhớ lại anh đang
ở giữa Trường Sơn. Sớm nay là sớm thứ tám anh tỉnh dậy giữa
rừng.
Đêm qua vẫn không xảy ra chuyện gì khác thường. Nhưng
Hưng và các chiến sĩ đều đã bắt đầu biết: rừng đêm im lặng
song không bao giờ yên tĩnh. Trong bóng tối, mọi vật len lén đi
kiếm ăn. Cuộc sống rừng là một cuộc vật lộn âm thầm nhưng
ác liệt. Con nào cũng muốn nhìn thấy con khác và muốn che
giấu mình, dù chúng tấn công hay lẩn tránh.
Mỗi đêm giữa rừng hoang là một đêm khắc khoải. Giấc ngủ
trở nên chập chờn. Biết bao cặp mắt rình các chiến sĩ trong
bóng tối sâu thẳm, còn họ thì chẳng nhìn thấy gì bên ngoài
đống lửa.
Buổi chiều khi dừng chân, ông già Cao thường cố chọn một
chỗ thuận lợi: một bến nước xa vách núi và ít dấu chân, một
chỗ nằm quang đãng xa những bụi rậm mà thú dữ có thể rình
nấp, một chỗ nhiều củi để đốt lửa được thâu đêm. Bao giờ ông
già cũng nhận phiên canh quan trọng nhất, từ nửa đêm đến
gần sáng, giờ mà thú dữ thường ráo riết đi săn mồi. Ông như
nhìn thấy và nghe thấy hết: từ tiếng vỗ cánh thoang thoảng
của con cú bên trên các vòm cây đến tiếng bước êm như nhung
của con báo lảng vảng trong bóng tối. Nhiều khi đang nằm yên,
ông già bỗng nhỏm dậy, lắng nghe. Không ai bảo ai, mọi người
đều nhỏm dậy, tay nắm lấy vũ khí. Phải chờ đến khi ông già bẻ
thêm củi ném vào bếp và thong thả nằm xuống thì mọi người
mới yên tâm nằm xuống theo.
… Qua một đêm giá lạnh, đống lửa đã tàn. Ông già Cao cùng
người trực nhật dậy trước đang gây lại bếp, nấu bữa ăn sáng.
Ông ngồi im lặng hút thuốc, thỉnh thoảng lại phả từng đám
khói vào làn sương sớm. Khói thuốc cay cay cùng hơi cơm sôi
nóng hổi hòa theo lửa ấm loang loang tới các nệm lá. Khi các
chiến sĩ thu xếp xong ba lô thì cơm vừa chín. Họ xuống suối
đánh răng rửa mặt rồi về ngồi ăn quanh đống lửa.
Từ ngày đi sâu vào lòng Trường Sơn, tới các vách đá nơi bầy
vượn ẩn náu thì bữa cơm sáng trở lên ồn ào. Ai muốn nói đều
phải nói thật to mới át được tiếng hú miên man của lũ vượn
trên đầu.
Phải đợi khi nắng lên, vượn kêu đã mỏi thì rừng mới trở lại
im ắng. Giờ này là giờ chúng vui đùa. Chúng thoắt nhảy lên,
thoắt lao tới, có lúc kết thành một sợi dây vắt ngang, đu đưa
giữa hai cành cây. Nhưng một đầu dây bỗng rời ra, cả bầy
buông mình thõng xuống. Rồi con cuối cùng lại đu lên, bắt lấy
một cành cây khác và cứ thế cái dây vượn đen kịt nhịp nhàng
vắt từ cây nọ sang cây kia như một con sâu đo rất lớn.
Bao giờ sương tan hết, các chiến sĩ mới lên đường.
Trong lúc chờ đợi, ông già Cao dạy mọi người vài câu tiếng
Lào. Người đi đường xa cần nhất phải biết hỏi đường và tìm
nơi ăn ngủ. Những câu đầu tiên mà các chiến sĩ học cũng nhằm
mục đích ấy.
Ông già Cao đọc to từng câu, các chiến sĩ lần lượt đọc theo.
Chỉ sau mấy hôm, ai cũng đã thuộc được dăm bảy câu thông
thường để chào hỏi, mua bán và tìm đường.
Buổi sớm mới ra đi, chân còn dẻo, lưng còn cứng, mọi
người đều hăng hái. Trời tạnh ráo, ấm áp, sau những cơn lạnh
kéo dài. Bướm bay đầy trên những khoảng đất còn ẩm, nơi có
những đám rêu xanh. Chim đi tìm sâu, nhảy lách tách trong
bụi rậm. Từng bầy sóc ngồi ăn trên các cành cây, thỉnh thoảng
lại lấy chân trước đập đập lên những sợi râu và chơm chớp cặp
mắt đen láy để nhìn người.
Rừng đã trút bỏ tấm áo mùa đông và mặc xong tấm áo rực
rỡ của mùa xuân. Các đồi gianh dạt dào dưới xa, xanh rờn. Đâu
đâu cũng thấy hoa lá tươi non. Những lớp rêu mới mịn như
nhung phủ kín các vách núi trước đây xám ngắt. Cả đến các cây
cổ thụ già nua cũng trẻ lại. Chúng giũ hết những chiếc lá úa
màu vàng chanh xuống đầy dưới gốc và từ những cành trước
đây còn khẳng khiu trơ trụi đã nảy ra những vầng lá non bát
ngát.
Không còn thấy những con thú đói ăn gầy guộc của mùa
đông, lưng mang bộ lông đang rụng, bạc màu và xơ xác. Cây cỏ
đầy chồi xanh, thức ăn thừa thãi, con vật nào cũng no béo. Bọn
thú có gạc đã thay xong bộ lông mới. Chúng lũ ba lũ bảy rong
ruổi rừng xuân, cứ như trời sinh ra mùa xuân là cốt để cho
chúng thỏa thích chơi bời. Có khi chúng đưa nhau đến sát
đường đi. Bạo dạn nhất trong bọn có lẽ là lũ cà toong. Chúng
có những cặp tai to bên trong phủ lông trắng muốt, những cặp
sừng nhiều nhánh dài và mảnh dẻ. Bộ áo của chúng làm chúng
lẫn hẳn vào khung cảnh chung quanh: màu lông nâu lẫn vào
màu đất rừng và những dấu sao trắng trên lưng lẫn với những
đốm nắng lọt qua các kẽ lá.
Các chiến sĩ muốn bắn một con vì thức ăn đã cạn. Chỉ cần
đường hoàng lại gần chúng, giơ súng lên và nếu muốn chắc
chắn thì tì súng vào một cành cây.
Ông già Cao đã ngăn họ:
– Thôi đừng! Đang mùa xuân, để cho chúng sinh đẻ. Thế
anh em không nghe thấy tiếng gì hay sao?
Các chiến sĩ còn đang ngơ ngác thì ông già đã nói tiếp:
– Tiếng đàn xuân! Đấy, đàn đang gảy đấy!
Mọi người lắng nghe. Chỉ thấy tiếng lá rì rào, tiếng chim
hót ở xa, tiếng róc rách của những con suối chớm có nước,
tiếng khua của những cặp sừng cà toong và tiếng móng của
chúng bước nhẹ trên đường.
– Có thấy tiếng đàn nào đâu? – Các chiến sĩ cùng hỏi.
– Đấy, đàn đang gảy đấy! – Ông già mỉm cười nhắc lại, chừng
như ông nghe rõ lắm.
Mọi người lại hết sức lắng nghe. Mãi sau họ mới phân biệt
được trong tiếng rừng lao xao, có những tiếng gì đó thỉnh
thoảng lại rung lên khe khẽ, như tiếng rung của những dây tơ
giữa tiếng chim kêu thoang thoảng. Đó là tiếng của các giọt
nước rơi từ thạch nhũ xuống vũng. Chúng ngân vang trong
những hang động sâu thẳm, dội đi đội lại nhiều lần qua các
vách đá trước lúc bay ra ngoài.
Ông già Cao hỏi:
– Cái tiếng rung rung ấy, anh em nghe có giống tiếng đàn
không?
Ông già bảo người các làng gọi đó là tiếng đàn xuân.
Một truyền thuyết dễ thương đã được thêu dệt quanh tiếng
nước rơi từ các thạch nhũ: mùa xuân, thần gió căng những dây
đàn trên cặp gạc của bọn cà toong và bọn hươu nai, đánh lên
thánh thót theo tiếng chim, cho muôn loài vui chơi ca hát. Cứ
lắng nghe đi, sẽ thấy tiếng đàn ấy giữa muôn thứ tiếng rừng. Vì
thế mà vào mùa xuân, bọn cà toong và hươu nai được coi là
những con vật thiêng liêng. Không ai săn bắt chúng trong
những ngày ấy. Mà có săn bắt thì cũng trượt mồi…
Ông già Cao kết luận:
– Ai cũng biết đấy là chuyện hoang đường vậy mà vẫn cứ
tuân theo. Đó là một tục lệ để giữ mồi săn: mùa xuân là mùa
chúng sinh sản.
Hình như bọn cà toong tinh khôn biết được điều đó. Vì thế
mà chúng chẳng hề sợ sệt khi thấy bóng người. Lũ cà toong
non lại gần đường đến nỗi tưởng chừng có thể lấy tay sờ được
vào những mạng sườn phập phồng của chúng! Cả bầy cùng
nghển cổ lên, ngả đôi gạc được dùng để căng dây đàn ra sau
lưng, đứng nhìn các chiến sĩ bằng đôi mắt ngơ ngác trong veo.
*
Trời chiều. Vào những buổi chiều xuân ấm áp, rừng Trường
Sơn tràn đầy ánh nắng. Nắng vàng hoe trên những cây cổ thụ
cao ngất, tán chạm trời xanh. Từng đàn chim về tổ vỗ những
cặp cánh sặc sỡ, vẽ trong nắng những đường bay lấp loáng.
Dưới vòm cây, các chiến sĩ đang rảo bước. Nhân những ngày
nắng ấm, họ cố đi cho được nhiều đường.
Ông già Cao dẫn đầu đoàn người. Ông vẫn đeo gói hành lý
trên vai, giắt ngang lưng con dao rừng to bản, tay cầm cây ná
nâu bóng. Bộ cánh nái nhuộm vỏ đà của ông đã bị gai cào rách
ba bốn chỗ.
Càng vào sâu, rừng già càng vắng lặng, chỉ nghe tiếng sột
soạt như tiếng đất hoang cựa mình đón bước chân người.
Chợt một tiếng rống dội lên rền vang. Tiếp sau có tiếng
chân nặng nề đạp trên lá rụng. Ông già Cao kêu to:
– Voi! Có Voi!
Trong khoảnh khắc, các chiến sĩ đã nấp những gốc cây. Tiểu
đội trưởng Hưng chĩa súng về phía tiếng động.
Riêng ông già Cao vẫn đứng giữa đường. Ông lắng nghe rồi
trở nên nhanh nhẹn, mắt bừng sáng vì một niềm vui bất ngờ.
Ngoảnh lại phía sau, thấy Hưng đang chuẩn bị bắn, ông xua
tay:
– Buông súng xuống! Ông Một đấy mà! Đừng làm ông Một
giận.
Ông Một đủng đỉnh bước ra khỏi lùm cây. Đó là một con voi
đực già. Nó chỉ còn một chiếc ngà nguyên vẹn, còn chiếc kia đã
gãy. Da nó nhăn nheo, trán gồ cao, cặp mất đã mờ đục và cái
ngà thì trĩu xuống như quá nặng đối với sức nó. Chỉ duy cái
dáng đi của nó là còn giữ được vẻ hùng tráng của loài voi. Con
vật bước những bước nặng nề nhưng điềm đạm, tự tin, vừa
vung vẩy cái vòi dài, vừa thong thả tiến về phía đoàn người.
Đợi con vật đến trước mặt, Ông già Cao đặt cây ná xuống
đất và cung kính cúi chào:
– Chào ông Một ạ!
Chào xong, ông vẫy các chiến sĩ. Từ sau các gốc cây, họ lạ
lùng đi tới.
Con voi đứng lại, đưa vòi lên hít hơi ông già. Cái dáng già
nua của nó làm ông lão buồn thiu. Ông vuốt mãi cái vòi và lắc
lắc chiếc ngà rồi bỗng run run nói:
– Ai ngờ lại gặp ông Một ở đây. Lâu nay ông có mạnh giỏi
không? Chao ôi! Ông Một già đi quá, cái ngà của ông lung lay
sắp rụng mất rồi.
Con voi buông vòi xuống. Các chiến sĩ thấy trên cái lưng
xương xẩu của nó những vết hằn. Đó là dấu cái bành, ở đó lông
không mọc lại và da đóng sẹo.
Ông già Cao trầm ngâm nhìn mãi lớp sẹo, tưởng chừng ông
đang tìm lại ở đó những vết cũ này đã phai mờ. Lát sau ông đưa
bàn tay gầy khô lên giụi mắt và quay lại hỏi:
– Ai có đường cho tôi một bánh.
Tiểu đội trưởng Hưng lấy một bánh đường phèn trong túi
đưa cho ông.
– Vài bánh nữa! – Ông già Cao giục.
Sơn và Đức cùng tiến lại, lấy phần đường của họ trao cho
ông già.
Ông lão bẻ đường, đưa từng miếng cho con voi. Con vật
vươn vòi hít lấy, thong thả đưa vào mồm.
Vừa cho con voi ăn, ông già vừa thì thầm:
– Bấy lâu ông Một đi những đâu mà chẳng thấy xuống làng?
Người làng đợi ông lắm! Có mấy nương mía vẫn dành đó, chờ
ông xuống chơi.
Con voi đã ăn xong. Nó nặng nề nhấc chân, như muốn đòi
đi. Ông già Cao lại cung kính cúi chào:
– Chào Ông Một về. Đêm nay chúng tôi ngủ lại gần đây, nhờ
ông xua thú dữ đi cho chúng tôi được ngủ yên.
Con voi rống một tiếng rền vang. Nó hít hơi ông già và lần
lượt hít hơi từng người rồi thong thả bỏ đi trước những cặp
mắt kinh ngạc của các chiến sĩ.
Mọi người trông theo cho đến khi cái bóng to lớn của con
vật khuất sau những hàng cây.
Họ ngủ lại dưới rừng thông, một trong những rừng thông
thường gặp trên các đỉnh núi cao của dãy Trường Sơn. Đêm se
lạnh, không khí nhẹ lâng, ngào ngạt. Lá thông reo hát vi vu và
nhìn qua đám lá lăn tăn, thấy muôn nghìn vì sao lấp lánh trên
trời đêm tím biếc.
Ông già Cao đốt một đống lửa bằng củi thông thơm phức.
Câu chuyện bắt đầu:
“…Ngày ấy qua đã lâu rồi. Nghĩa quân của đề đốc Lê Trực*
dựng căn cứ chống Pháp trong những cánh rừng này. Họ đã
chống giặc nhiều năm nhưng sự nghiệp không thành. Giặc vây
hãm và nghĩa quân dần dần tan tác.
Ông đề đốc buộc phải về quê đợi thời. Trong quân có một
con voi trận đã từng bao phen cùng ông đề đốc xông pha lửa
đạn. Ông tặng con vật cho người quản tượng thân tín, người
này đưa nó về làng.
Khi ấy con voi còn trẻ đẹp. Nó đen bóng và to lớn. Con vật
trông nặng nề, nhưng rất khôn ngoan. Cặp mắt nó nhỏ và lim
dim suốt ngày như bị chói nắng thế mà nhìn thấu cả cái lá
động từ xa. Hai tai nó to bằng hai cái quạt lúa và luôn luôn ve
vẩy. Khi nó xòe tai lắng nghe thì không một tiếng động nào có
thể lọt qua. Cái vòi của nó đầy căng hai chét tay người lớn, lúc
nào cũng đung đưa mềm mại. Mỗi lần ông đề đốc đưa nó ra
trận, cái vòi của nó quật ngang quật dọc làm những tên giặc
Tây bắn vung lên như những cọng rơm. Bốn chân con voi sừng
sững như bốn cột đình. Bàn chân to nện trên đất rừng thình
thịch. Nhưng bốn cẳng chân đó có thể chạy thoăn thoắt, cuốn
bụi và đưa cái mình to lớn của con voi lao đi, xô vào lũ giặc như
núi lở.
Con voi còn có một đôi ngà dài và đẹp, trắng ngần, hai đầu
nhọn hoắt như hai mũi gươm. Nhưng một chiếc ngà đã bị bắn
gãy, chỉ còn một chiếc nguyên vẹn nên con vật càng ra công
mài giũa. Thỉnh thoảng trong lúc đợi ăn nó vẫn cọ chiếc ngà
vào cái cột gỗ nơi nó bị xích chân, cho thêm bóng.
Ra trận với chiếc ngà duy nhất, con voi càng xông xáo, dữ
tợn. Nó đã lập nhiều chiến công. Nghĩa binh trìu mến gọi nó là
“Ông Một”.
Nhưng mọi cái đó giờ không còn nữa.
Từ ngày rời căn cứ, con voi trở nên ủ rũ. Nó nhớ ông đề
đốc, nhớ đời chiến trận, nhớ rừng và gầy rạc đi vì cuộc sống tù
túng dưới làng. Nó vẫn giúp người quản tượng phá rẫy, kéo gỗ,
nhưng chỉ khuây khỏa những lúc làm việc rồi sau đó lại đứng
buồn thiu. Có bận nó bỏ ăn, không đụng vòi đến một ngọn
mía, một sợi cỏ.
Người quản tượng hiểu lòng con voi. Nó là nguồn an ủi của
ông trong lúc sa cơ. Ông chưa từng sống với ai lâu như sống
với nó. Ông quen nó quá, khó xa rời nó được. Vậy mà ông vẫn
quyết định thả nó về rừng, nơi nó ra đời.
– Một mình ta chịu tù túng cũng đủ rồi – người quản tượng
thường tự bảo – Còn nó, nó phải được buông thả.
Người quản tượng đinh ninh rằng gặp thời vận, đề đốc Lê
Trực sẽ lại dấy quân và lúc đó ông sẽ đi đón con voi trở lại. Ông
để con vật nghỉ hết vụ hè và vỗ cho nó ăn. Ngày nào ông cũng
cho nó ăn thêm hai vác mía to và hai thùng cháo. Ông coi con
voi như con em trong nhà, giục giã nó:
– Ăn cố đi, ăn cho khỏe, lấy sức mà về. Rừng già xa lắm, phải
có sức mới đi tới nơi. Bao giờ chủ tướng dấy quân, lúc đó ta sẽ
đón em trở lại.
Con voi đã cố ăn suốt mùa hè nhưng sang đến mùa thu thì
không chịu ăn nữa. Trời thu yên tĩnh, gió rì rào đưa về làng
hương vị của rừng xa. Con vật cứ vươn vòi đón gió và buồn bã
rống gọi. Nó héo hon đi như một chiếc lá già.
Người quản tượng biết gió thu nổi làm con voi nhớ rừng.
Ông quyết định thả ngay nó đi.
Một sớm, ông mời rất cả các bô lão trong làng đến nhà để
chia tay với con voi. Họ đều thân thuộc với nó và coi nó như
một người bạn. Ai cũng mang đến cho nó một món quà: người
mang vác mía, người mang thùng cháo, người mang đến vài
bánh đường. Ai nấy đều tự tay đưa món quà của mìmh lên
miệng con voi. Khi con vật ăn xong, người quản tượng tháo
xích ra khỏi chân nó. Nó giãy giãy cái chân đã nhẹ tênh, ra vẻ
vừa lòng. Các bô lão đem đến một dây lá thiên tuế, thứ lá rừng
tươi xanh được lâu, buộc một vòng quanh ngực con vật. Đó là
dấu hiệu để báo với thợ săn trong vùng: con voi của ông đề đốc
được buông thả, đừng ai ham chiếc ngà mà săn nó.
Người quản tượng và các bô lão nắm lấy vòi con voi, dắt nó
ra đến dòng sông đầu làng. Đến đó, người quản tượng ôm chặt
cái vòi vào ngực. Con voi khẽ rút vòi ra, lưu luyến hơi ông già
và các bô lão rồi chậm rãi bước xuống dòng sông, chân giẫm vỡ
những mảnh trời trong in dưới đáy nước. Lên đến bờ, con vật
quay lại vươn vòi rống gọi. Tiếng rống tha thiết làm người
quản tượng và các bô lão mủi lòng. Người quản tượng nói theo:
– Thôi, đi cho bình yên! Trời thương, nếu đất nước gặp vận,
chủ tướng lại ra quân thì ta sẽ lên núi đón em về.
Con voi đi đâu không ai biết, chỉ thấy hằng năm khi sang
thu, nó lại xuống làng. Nó rống gọi rộn ràng từ xa, trước khi
lội qua bến sông. Nghe tiếng rống, người làng bảo nhau: ông
Một đã về. Họ nô nức cùng người quản tượng ra đón nó ở tận
đầu làng.
Con voi theo người quản tượng về mái nhà cũ, quỳ ở giữa
sân. Thấy con vật luyến chủ trở về, người quản tượng như trẻ
lại. Ông dẫn nó đi tắm rồi hớn hở đưa nó lên nương – ông vẫn
trồng sẵn cho nó một nương mía – thết nó những bữa no nê.
Vào những ngày ấy, nhà ông tưng bừng và chật ních người.
Lũ trẻ kéo đến xúm xít dưới chân voi, còn các bô lão thì lại như
xưa, đem đến cho nó đủ thứ quà.
Con voi thường lưu lại nhà người quản tượng vài hôm. Nó
giúp ông đủ việc: nó cuốn các ống bắng ra sông lấy nước và
không cần người đưa dắt, lên nương lấy vòi quắp những cây gỗ
mang về.
Buổi chiều, khi công việc đã xong, người quản tượng đưa nó
đi diễu quanh làng. Vắng ông đề đốc cùng lá cờ trận sạm đen
khói súng nhưng buổi diễu voi vẫn vô cùng náo nhiệt và trang
trọng. Người quản tượng đóng bành, mời các bô lão cao tuổi
nhất ngồi lên đó. Còn ông và đứa con trai thì ngồi ở cổ voi, tay
khua cây đòng sáng ngời. Lũ trẻ chia làm hai toán: một toán đi
trước, gõ tong tong trên những chiếc trống khẩu, toán còn lại
thì tay que tay gậy, à à kéo theo chân voi.
Được mười năm như thế, người quản tượng qua đời. Ông
mất giữa lúc đất nước còn tối tăm, thời vận dấy quân chưa tới
để ông đi đón con voi trở lại.
Lần ấy khi con voi xuống làng thì người quản tượng không
còn nữa. Không thấy ông ra đón ở đầu làng, con voi rảo bước
về nhà. Nó quỳ xuống giữa sân, rống gọi, rền rĩ hoài mà vẫn
không thấy người quản tượng đi ra. Khi biết mọi tiếng rống gọi
đều vô ích, con voi lồng chạy vào nhà. Cái thân hình to lớn của
nó làm sập khung cửa nhỏ và đổ gãy các đồ đạc. Con vật hít hơi
cái giường cũ của người quản tượng rồi buồn bã đi ra, chạy
khắp làng tìm chủ. Các bô lão mang mía đến cho nó nhưng con
voi không ăn mà cứ lồng chạy như một con voi hoang.
Từ đó mấy năm con voi mới lại xuống làng một lần.
Nó trở nên lặng lẽ, đảo qua cái nhà cũ của người quản
tượng, tha thẩn đi trong sân, vừa tung vòi hít ngửi khắp chỗ
vừa khe khẽ rền rĩ rồi âm thầm bỏ đi…”
…Ông già Cao đăm đăm nhìn ngọn lửa đang tàn. Lâu lắm
ông mới chậm rãi nói tiếp:
– Ngày cha lão thả ông Một vào rừng, lão còn nhỏ. Lão nhớ
khi ông Một ra đi, cha lão cứ im lặng như người câm. Mãi tới
khi ông Một về thăm, cha lão mới cười nói. Trong dịp đó, lão
thường cùng lũ trẻ xúm xít dưới chân ông Một, xem ông ăn rồi
theo chân cha lão, giong ông đi diễu quanh làng. Năm nào
không thấy ông Một xuống thì nhớ, cứ ra đứng ngóng ở bến
sông. Việc ấy nhắc đi nhắc lại thành lệ, cho đến lúc đứng tuổi
mà vẫn còn trông ngóng. Thế nhưng đã mấy chục năm nay
không thấy ông Một trở về. Có lẽ vì ông đã già mà đường
xuống làng thì xa…
Trời đã khuya. Sương đêm đọng trên cao rơi những giọt
lạnh ngắt xuống các chiến sĩ. Ông già Cao chất thêm củi. Lửa
bừng cháy, bốc ngùn ngụt, thổi giạt các tàn lá trên đầu. Các
chiến sĩ vun lá thông làm ổ, nằm quanh đống lửa ấm. Ai cũng
thao thức. Lá thông lao xao mỗi khi trở mình, người nọ nghe
người kia trằn trọc thâu đêm.
Ông Một quanh quẩn đâu đây dưới chân đồi, đôi lúc lại rống
gọi. Tiếng ông loang dài trong đêm vắng. Các chiến sĩ nghe
trong tiếng gọi có lẫn tiếng hò reo, tiếng gươm đao xô xát và
tiếng cha ông giục giã lên đường.
Đ
Chương II
ường càng lên cao, càng gai góc, hiểm trở. Dần dần, đó chỉ
còn là dấu vết những lối đi mơ hồ của loài thú và những
vệt nước chảy kéo dài của mùa mưa năm trước. Ông già Cao và
các chiến sĩ cứ nhắm phía mặt trời lặn mà leo. Khắp nơi là
những cánh rừng hoang vu, những vách núi cao ngất và giữa
chúng là những vực sâu thẳm. Từ vách núi có thể nhìn thấy
dưới xa, những túp lều đã sụp đổ, những nương rẫy bỏ hoang
lâu ngày nay đã rậm rì, nhưng tuyệt nhiên không thấy bóng
người.
Có khi đường đi lọt xuống những thung lũng âm u, lúc nào
cũng tràn ngập bóng tối. Đó là nơi con tê giác hiếm hoi sống
thầm lặng bên cạnh những vũng bùn. Con vật thường đi lang
thang đơn độc vào mùa rét nhưng đến mùa xuân, khi các vũng
nước không còn giá băng, nó lại trở về nơi nó thường đằm
mình.
Có khi các chiến sĩ thấy nó đang ngủ. Dưới mặt nước đục
ngầu, có một khối đồ sộ như một khúc gỗ lớn bám đầy bùn, từ
đó thò lên một chiếc sừng nhọn và một cái mõm rộng, bên
trong vẳng ra những tiếng ngáy giòn giòn.
Có lúc họ thấy nó đứng im lìm, hai cái tai dài loe rộng và
rách bươm vì gai rừng cào xé. Đầu và tấm da dày như tấm áo
giáp của nó phủ đầy những tảng bùn khô. Chỉ riêng cái sừng
của nó vì luôn được mài vào đá hoặc thân cây nên nhọn hoắt và
bóng nhẵn. Nó đứng lạnh lùng nhìn các chiến sĩ, mũi hếch lên
để đánh hơi. Đối với nó, hình như người chỉ là những con thú
trần trụi, không móng vuốt, chẳng có gì đáng sợ.
Ông già Cao đã quen tính nết của mọi loài thú, bảo rằng con
vật rất hiền lành, chỉ nổi giận khi bị chọc tức hoặc bị săn đuổi.
Tuy vậy, các chiến sĩ vẫn rất dè chừng. Mỗi khi thoáng thấy
bóng nó, họ đứng nấp ngay vào sau các gốc cây, tiểu đội trưởng
Hưng chĩa súng ra phía trước. Rồi thì hoặc họ đi tránh theo
một đường vòng, hoặc ông già Cao quật vào các cành lá để xua
đuổi con vật. Thế là nó cúi ngay đầu xuống, khìn khịt hai lỗ
mũi, ngả cái sừng duy nhất ra phía trước và giận dữ lao đi như
một cơn bão.
Trong dịp đi qua xứ sở của loài tê giác, không đêm nào ông
già Cao cho đốt lửa. Khác với mọi thú rừng, bọn tê giác cứ thấy
lửa và khói là nổi giận. Nó nhắm phía có ánh sáng lao đến,
xuyên qua những bụi rậm đầy gai góc và hất tung đống lửa đi
khắp nơi.
Có lúc dưới suối vắng, các chiến sĩ gặp con heo vòi đứng
trầm ngâm nghe nước chảy. Nó lớn bằng con bê nhỏ, đầu to,
mình dài, môi trên kéo thành một cái vòi, luôn luôn ve vẩy
đánh hơi. Có lúc nó vươn vòi lên bờ, bứt lá đút vào mồm. Con
vật khoác tấm áo xám, từ lưng xuống đến mông là một mảng
lông trắng như tấm chăn chiên. Bộ lông làm nó hoàn toàn lẫn
vào các tảng đá nằm ngổn ngang giữa lòng suối, phải để ý lắm
mới phân biệt nổi.
Các chiến sĩ thường thấy nó đứng một mình, ngâm nước
đến bụng chân. Loài này bị bọn chó rừng và thú dữ săn đuổi
ráo riết. Chẳng có gì để phòng thân, chúng phải ở riêng mỗi
con một nơi để giữ gìn dòng giống. Mỗi khi bị săn đuổi, chúng
rúc vào những bụi rậm rất dày, có khi đeo cả kẻ thù trên gáy
nhảy xuống tận đáy nước, nhờ đó mới thoát thân.
Khi đến gần chỗ có heo vòi, các chiến sĩ đều biết trước. Con
vật thường sống chung với bọn cò ngà. Lũ chim này đi lại suốt
ngày trên lưng nó, bới lông nhặt bọ ở những nếp da, ở mí mắt,
kẽ tai… Con vật cứ đứng im, đôi lúc lại kêu những tiếng trầm
trầm, rầu rĩ. Chừng như nó buồn phiền vì cuộc sống lẻ loi, xa
đồng loại. Khi các chiến sĩ đến gần, bọn cò ngà bay túa lên báo
hiệu cho bạn. Thế là “oạp”, chú heo vòi lặn ngay xuống nước.
Một chiều, đoàn người lên đến đỉnh một ngọn núi cao. Tên
ngọn núi được ghi trên bản đồ: ngọn 1457. Nó cao 1457 mét so
với mặt biển.
Đứng trên cao chót vót, tưởng như chiều còn sớm. Nắng
vẫn long lanh đầu núi nhưng ở phía đông, dưới chân núi,
sương lam đã bắt đầu buông.
Mọi người cùng nhìn xuống những sườn núi thoai thoải đổ
về phía tây.
– Dưới ấy là đất Lào rồi! – Ông già Cao nói.
Trời phía tây vẫn còn vàng rực. Không thấy làng bản, có lẽ
chúng ở lấp đâu đó dưới các vòm cây, mà vẫn chỉ thấy rừng
rừng núi núi trùng điệp. Các rừng chuối trải rộng mênh mông,
xanh ngắt màu lá non, đôi chỗ bắt đầu điểm vài bông hoa đỏ.
Những dòng suối lấp lánh, len lỏi dưới chân các trái núi. Xa
tắp, sát chân trời, thấy nét lượn nhấp nhô của những dãy đồi.
Hưng bắc ống nhòm, quan sát. Trong các rừng chuối có
những tảng lưng đen nhấp nhô, đôi lúc lại ánh lên cái ánh bạc
của những cặp ngà trắng.
– Voi phải không? – Ông già Cao hỏi khi Hưng hướng mãi
ống nhòm về phía các rừng chuối – Voi Lào đó!
– Nhiều lắm, bọ ạ! – Hưng trả lời trong lúc Sơn và Đức chạy
lại, tranh nhau mượn cái ống nhòm trên tay anh.
Ông già Cao gật đầu:
– Phải, nhiều lắm! Mùa này chúng đang đi kiếm ăn ở các
rừng chuối. Ngày mai ta sẽ gặp chúng trên đường xuống các
làng Lào.
Rồi bầy voi rời xa. Chúng cũng đi tìm một chỗ nghỉ đêm.
Nắng thong thả tắt. Sườn núi phía tây chìm dần trong bóng
chiều. Các chiến sĩ nổi lửa nấu bữa cơm tối trong lúc tiểu đội
trưởng Hưng trải tấm bản đồ lên một phiến đá lớn, cùng Ông
già Cao tính đường cho ngày mai.
Khi Hưng tỉnh dậy thì trời đã sáng. Buổi sớm vắng vẻ.
Muông thú ít sống trên đỉnh núi, vì vậy không thấy một tiếng
chim kêu, gà gáy. Phải lắng tai mới nghe thoang thoảng tiếng
vượn hú vọng lên từ dưới chân núi xa thẳm.
Các đỉnh núi dần dần nhô khỏi đám sương đang tan. Lũ sơn
dương thầm lặng đứng vươn sừng trên các mỏm đá. Bộ lông
đen của chúng lóng lánh dưới những tia nắng đầu tiên.
Đoàn người tiếp tục lên đường. Ông già Cao lấy trong đãy
một chiếc âu bằng đồng. Lúc mới ra đi, khi thấy ông cẩn thận
nhét cái âu vào giữa đám quần áo, Hưng nói:
– Chúng con có đủ “cà mèn” để nấu ăn ở dọc đường rồi, bọ
đưa cái ấy đi làm gì cho nặng!
– Cái gì cũng có việc cả! – Ông già mỉm cười, trả lời. – Người
đi đường xa trên Trường Sơn không thể thiếu cái này được.
Ông già treo cái âu vào một sợi dây. Ông gõ thử, tiếng đồng
vang lên lanh lảnh. Các chiến sĩ còn đang lạ lùng thì ông già đã
ra lệnh:
– Mọi người lấy “cà mèn” ra đi! Khi nghe lão gõ thì cứ gõ
mạnh theo.
Xuống dốc chưa được bao lâu đã thấy đường đi đầy những
dấu chân. Dấu nào cũng đằm sâu, to lớn. Rồi bỗng nghe có
tiếng bước nặng nề ở phía trước.
– Voi đấy! Voi đấy!
Ông già Cao đang đi đầu vội đứng sững lại, kêu to. Ông hối
hả gõ vào chiếc âu. “Coồng! Coồng! Coồng!…” Các chiến sĩ cũng
vội lấy “cà mèn” khua xoang xoảng. Rừng núi đang im lìm bỗng
náo động. Bầy voi chạy ào ào. Từng khối đen lù lù lao đi trong
màn sương đang tan, khối nọ tiếp khối kia, làm cây cối gãy
răng rắc.
Trong một buổi sớm, các chiến sĩ phải đuổi ba bốn bầy voi
như thế, lấy lối xuống núi.
Hôm sau, rừng bớt rậm. Đã bắt đầu thấy dấu vết của con
người, những dấu rất nhỏ, nếu không có ông già Cao thì các
chiến sĩ đã bỏ qua. Đó là những vết bấm móng tay trên các cây
nấm, những miếng bã trầu do các cô gái đi kiếm nấm để lại,
những mẩu thuốc thừa của thợ gỗ, đã nát mủn, lấp trong đám
lá dưới chân. Cả đến Ông già Cao cũng thấy bồi hồi trước
những dấu vết ấy. Mọi người trầm trồ nhìn ngắm, tưởng như
họ phải xa cách xã hội loài người đã từ lâu lắm.
Chỉ mới cách Việt Nam mấy vách núi mà thời tiết đã thay
đổi hẳn. Nắng chang chang. Trời lúc nào cũng sáng bừng bừng,
chừng như mặt trời luôn luôn ở trên đỉnh đầu, không có giờ
lặn. Cây cổ thụ thân mốc bạc, cao vút và thưa lá, để lọt xuống
mặt đường những vầng nắng gay gắt. Ve kêu ran và chim gáy
gù “cúc cu!” đều đều trong các vòm lá lấp lánh.
Phút chốc rừng thưa lùi sau lưng và trước mặt đã thấy
ruộng. Những dải ruộng hẹp và dài, viền quanh rìa núi, mảnh
nọ chồng lên mảnh kia như những bậc thang. Dưới xa là làng,
nằm trong những đám dừa, cau cùng những cây xoài xanh
thẫm đã lác đác quả non. Nhà dựng chênh vênh trên những
dãy cột, trước sàn là những cây đại lác đác hoa trắng. Giữa làng
thấy một ngôi nhà gỗ rất lớn, mái nhiều lớp xếp lên nhau cong
vút, Ông già Cao bảo đó là chùa.
Chùa nằm trong một hàng rào thấp và thưa như một hàng
lan can. Ông già Cao lại gần một cái mõ gỗ treo trên một cành
xoài. Trời đang giữa trưa, làng bản vắng ngắt. Hình như mọi
người đi đâu vắng hoặc đang ngủ. Trâu bò nằm trong bóng
mát, ghếch đầu lên lưng nhau, mắt nhắm nghiền. Vịt bầu đứng
co một chân, dưới bóng những tàu lá ráy mọc bên bờ suối. Lợn
thả rông rúc trong bụi, trốn nắng. Gà đậu từng đám trên
những cối gạo dưới gầm sàn. Cả đến cây cối cũng như đang
ngủ. Dừa, cau gục ngọn xuống, hoa đại khép cánh và các cây
me giũ những đám lá lăn tăn.
Ông già Cao rút chiếc dùi trên cành xoài, đánh một hồi mõ
gióng giả. Từ một lùm cây, một người dân quân xách súng đi
ra. Anh quấn một tấm phá* kẻ sọc có những ô vuông màu đen,
mình để trần, da bóng nhẫy và đầy những vết trổ chàm. Sau
khi kiểm soát các giấy tờ, anh vui vẻ dẫn đoàn người vào làng.
Người làng đã tỉnh dậy từ khi nghe nổi tiếng mõ thứ nhất.
Lũ trẻ chạy ra đứng nhìn ở ngoài sàn. Chúng là những người
đầu tiên thấy khách vì chúng không ngủ trưa. Rồi chúng chạy
thụt vào nhà để đánh thức cha mẹ, vừa gọi vừa hớn hở khoe
mình đã thấy khách trước.
Khách đến! Khách đến! Tin truyền từ nhà này lan đến nhà
khác. Làng bản bỗng tấp nập.
Có những bà già vơ vội lấy gói thịt khô, ống mật và sai con
cháu đi bắt gà vịt.
– Mau lên các cháu! – Họ giục giã. – May quá, nhà đang cần
muối, cần dầu lửa, đá lửa…
Họ lầm tưởng khách là những người đi đổi hàng.
Lũ trẻ cười rộ lên:
– Không phải người đi đổi từ dưới đồng bằng lên đâu, bộ đội
Tình nguyện Việt Nam đấy. Họ từ trên núi xuống.
– Thế à? Bộ đội Việt Nam à?
Sự lầm lẫn không làm các bà già bớt vui. Họ tươi cười:
– Cứ bắt gà vịt đi! Không có người đi đổi thì mang làm quà
cho bộ đội Việt Nam.
Người du kích đưa các chiến sĩ lên nhà ông pa-than*. Cũng
giống các nhà khác trong làng, nhà ông pa-than rộng nhưng ít
cửa và hơi tối. Dựng những ngôi nhà như thế, người Lào cũng
có dụng ý: nhà là nơi nghỉ ngơi, mà ở nước Lào thì trời nắng
quá, lúc nào cũng chói chang.
Ông pa-than xếp hoa quả đầy một mâm, bưng ra mời khách.
Một lát sau, người các nhà đã lục đục kéo đến. Họ góp đủ thứ
quà, bày cả lên mâm: xôi, chuối, trứng, mật ong, rượu…
Những người đi bắn chim, bắn sóc ở ngoài rừng cũng chạy
về. Họ đem theo những xâu chim màu lông sặc sỡ và những
ống xì đồng dài đặt ở ngoài sàn. Cả những bà mẹ cũng đến, bế
trong lòng những đứa bé đang lim dim ngủ. Và cuối cùng là
dàn nhạc: họ mang theo khèn ghép bằng ống sậy và dàn sáo,
chiêng trống.
Mọi người chắp tay lên ngực, trân trọng cúi chào. Lũ trẻ
đến sau, muốn tới ngồi cạnh khách, lách qua đám người lớn.
Được dạy dỗ từ tấm bé, cô cậu nào cũng lễ phép. Đi qua mặt ai,
họ cũng cúi đầu, một tay vung vẩy để xin đường. Họ gọi các
bạn lớn tuổi hơn bằng “anh cả”, “chị cả”, và gọi người đứng tuổi
bằng cha, chú.
– Chị cả, anh cả ơi! Tránh cho em đi!
Trong lúc chờ đợi, các bà mẹ bỏm bẻm nhai trầu, còn đàn
ông thì hút thuốc và phả khói đầy nhà.
Trừ những người du kích bận canh gác, hầu như cả làng
đến chơi. Ở đây, con người sống cách biệt với mọi nơi, không
có báo chí, không có phương tiện liên lạc. Cuộc sống cứ đều
đều, phẳng lặng. Mọi nhà săn bắn và cày cấy chút ít, vừa đủ
cho nhu cầu, rồi sống trong cảnh an nhàn, không ham muốn gì
hơn. Người ta chỉ làm lụng cốt cho đủ ăn đủ mặc, có một ngôi
nhà để ra vào và thỉnh thoảng có một vài món ăn ngon để đưa
ra chùa cho các sư. Còn những cái khác, họ coi là cái xa hoa mà
muốn đổi lấy thì mất cả nghỉ ngơi yên tĩnh.
Từ ngày cách mạng, làng bản trở thành khu du kích. Ai
cũng bận rộn vì công việc. Bộ đội và cán bộ từ các nơi về. Họ
đem đến biết bao nhiêu chuyện nơi xa. Vì thế, cứ có người đến
là cả làng kéo tới nhà ông pa-than để nghe chuyện: các chiến sĩ
đi đâu, làm gì, ở nơi họ vừa rời khỏi có những chuyện gì lạ.
Các chiến sĩ kể cho người làng đủ chuyện. Chuyện dưới Việt
Nam. Chuyện làm ăn, chuyện giữ làng đánh giặc. Ông già Cao
dịch lại cho mọi người nghe. Cái gì cũng làm họ kinh ngạc.
Chốc chốc, nhiều người lại lạ lùng kêu lên:
– “Phạ ơi” (Trời ơi!) Bộ đội Việt Nam cũng như bộ đội Ít-xa-lạ
Lào, vất vả quá.
Buổi họp mặt bắt đầu từ lúc trâu bò chưa đi ăn bữa chiều.
Đến lúc chúng khua mõ lốc cốc, từ ngoài đồng trở về làng thì
câu chuyện mới dứt. Ngoài rừng, hoẵng đã cất tiếng kêu. Đêm
đang xuống. Ông pa-than đốt thêm ba bốn ngọn nến trám, làm
gian nhà sáng bừng.
Dàn nhạc nổi nhạc. Mọi người xúm đến buộc những sợi dây
xe bằng bông vào tay các chiến sĩ. Mỗi người được buộc đến
bốn năm sợi, đầy cả cổ tay. Đó là dấu hiệu để chúc phúc. Bằng
những sợi dây thân mật này, họ muốn ràng buộc các chiến sĩ
với đất nước Lào. Sau lễ buộc tay, mọi người cùng khách ăn
những thứ bày trên mâm cho được khước.
… Các chiến sĩ và ông già Cao nghỉ ở làng vài hôm. Đến khi
có một đoàn bộ đội tình nguyện trở về căn cứ thì các chiến sĩ
gửi ông già cho họ, nhờ họ chăm lo ông trên đường về.
Bây giờ đến lượt các chiến sĩ chuẩn bị cho ông già lên
đường. Họ dành những thứ còn lại sau chuyến đi cho ông: một
tấm chăn, cái “cà mèn” để nấu ăn dọc đường, lọ mắm kem, ít
thịt muối, vài món quà nhỏ cho các cháu ông già ở nhà.
Nhưng ông già chẳng nhận gì ngoài cái “cà mèn”. Ở phía tây
Trường Sơn, trời đã nóng bức nhưng bên phía đông, đêm đêm
vẫn trở rét. Các chiến sĩ ép ông già lấy tấm chăn, mãi ông mới
nhận.
– Thế là đủ rồi! – Ông già nói. – Đừng lo cho lão mà cũng
đừng phung phí. Đường xuống làng Vông-xay còn dài.
Các chiến sĩ đưa ông đến tận chân núi. Ông căn dặn:
– Các con đi cho bình yên và học sớm thành nghề. Bao giờ
học xong nhớ giong bầy voi về thăm lão cho vui.
*
Đường bắt đầu qua nhiều bản làng, với những cánh đồng
nho nhỏ, nằm giữa rừng phẳng bao la. Cứ buổi chiều, người
đưa đường lại đưa các chiến sĩ vào ăn ngủ ở trong làng và trao
họ cho một người dẫn đường mới.
Họ đi dần xuống ven đồng bằng.
Đất Lào hình như không có mùa xuân. Càng rời xa chân
núi, nắng càng gay gắt. Đâu đâu cũng thấy vẻ hoang sơ. Các
lòng suối vẫn khô cạn. Trên những đường mòn dài vô tận,
thỉnh thoảng lại nghe tiếng tre nứa nứt vỡ vì nắng và tiếng rìu
chặt gỗ vang vang. Cảnh vật đơn điệu như nhắc lại những
chặng đường họ mới vượt qua. Nhưng càng đi, các chiến sĩ
càng thấy những điều kỳ lạ. Bất kỳ ở đâu, sau một vòm cây,
một ngách núi, họ đều có thể gặp nhiều cái bất ngờ.
Tiểu đội trưởng Hưng ghi trong nhật ký:
Ngày 1 tháng 4 năm 1947.
… Ruồi bay khắp nơi. Người dẫn đường bảo: đâu có ruồi bay
thì ở đó có thú ẩn náu. Bác ta nói không sai: chỉ đi vài bước đã
thấy các gốc cây ven đường đầy những vết mài và những dấu
lông.
Người dẫn đường quả quyết: đó là dấu lợn rừng. Có thể đã
sắp đến chỗ lợn làm ổ đẻ. Gần tháng đẻ, lợn mẹ thay lông mới.
Phải cọ sạch đám bùn đọng từ bao tháng nay trên lưng. Lợn mẹ
dũi vào thân cây, cố làm tróc những mảng lông cũ.
Một lát sau, đã gặp đàn lợn len lỏi trong các bụi rậm. Con
lớn lông xám. Bọn lợn nhỏ, có lẽ là lứa lợn năm ngoái, mang
những vạch lông trắng trên lưng. Lợn đực có đôi nanh dài và
nhọn, hơi quặp về phía sau, bằng một thứ ngà rất trắng.
Thấy người, đàn lợn chạy hồng hộc, để lại những cái ổ rỗng
không. Ba bốn cái ổ làm gần nhau, cái nào cũng rộng. Người
đưa đường bảo: trước hết lợn mẹ đè giập một bụi cây xuống rồi
tha củi, gỗ, cỏ tranh lấp lên cho dày. Sau đó nó cúi rạp vào, lấy
lưng nâng bổng cả khối đó lên làm một cái mái che nắng. Rồi
nó dũi đất hất ra bốn bên, đắp nền cho ổ thêm vững.
Ổ chỉ có một cửa ra vào. Lòng ổ trũng sâu và được lót cỏ
tranh khô. Tháng bảy tháng tám thì lợn mẹ đẻ. Lũ lợn con mới
đẻ đã biết chạy. Được vài ngày đã biết ra ngoài chơi với các lợn
con ở ổ bạn, thoáng thấy động là chạy thụt vào. Trong khi đó,
bọn lợn bố với đôi nanh vô cùng lợi hại quanh quẩn bên cạnh,
sẵn sàng bảo vệ đàn con chống lại lũ thú dữ. Bao giờ đàn con đã
lớn, cả bầy lại lên đường đi kiếm ăn, tới các đầm lầy hoặc đồng
cỏ.
Thợ săn thường đến các ổ, quây lưới bắt lợn con về nuôi.
Người đưa đường nói rằng chính bác đã nuôi hai lứa lợn rừng
như thế.
Ngày 2 tháng 4 năm 1947.
Chiều nay nghỉ ở làng Pà-khoai, Pà-khoai nghĩa là “Rừng
trâu”. Trâu ăn từng bầy dưới bãi cỏ ở ven làng, không xỏ mũi,
không buộc thừng mà cũng không đeo mõ. Thấy người, chúng
ngừng ăn, ngước nhìn bằng những cặp mắt hiền lành, tròn và
rất to.
– Trâu rừng đó! – Người đưa đường nói.
Khi thấy anh em tỏ vẻ nghi hoặc, bác quả quyết:
– Trâu rừng thật mà! Lúc nào có người mua thì ra bắt về.
Vào làng mới biết là thực. Có những bầy trâu rừng rất đông
sống ở những bãi lau sậy gần làng. Người ta rắc muối, rử chúng
về. Chúng theo dấu muối, ăn dần đến làng, nhập vào đàn trâu
nhà và thong dong sống ở ngoài đồng, quen dần người hệt như
lũ trâu đã thuần.
Hằng năm, làng Pà-khoai bắt được ba bốn chục trâu hoang
như thế, bán sang Việt Nam.
Ngày 3 tháng 4 năm 1947.
Chợ Na-cai. Một chợ lớn trên bến dưới thuyền. Từ những
con thuyền độc mộc, nhiều người ì ạch vác những chiếc ngà voi
và những sọt hàng lên bờ. Người bán hàng cắm ô hoặc cắm
những tàu lá cọ làm mái che. Khách chợ ở xa ba bốn ngày
đường cũng tới. Các cô gái, cô nào cũng xòe một chiếc dù lụa
trên đầu.
Chợ bán bánh tráng và rất nhiều hoa, từ các túm hoa ngào
ngạt để cài đầu, các dây hoa để đeo cổ đến những bắp hoa chuối
làm rau ghém.
Khu hàng thịt rừng. Dăm ba người thợ săn dựng một giàn
bằng những cây cột lớn, treo ngược một chú heo vòi. Mấy chú
cá sấu gớm guốc, mõm và chân đã bị trói chặt, nằm trên những
chiếc sạp lớn. Một phản thịt gấu ngồn ngộn, bên cạnh bày bốn
bàn chân gấu để làm tin…
Rất nhiều hàng trầu cau. Các bà già và các cô gái, hình như
ai cũng ăn trầu. Dãy lâm sản đầy hàng quý: da thú, cánh kiến,
mật ong và sáp, trầm hương, quế…
Có một dãy hàng đặc biệt: người bán ngồi sau một chiếc
mâm mây, trên bày vài chiếc đĩa nhỏ xíu, đựng những mảnh
vụn li ti, lấp lánh. Thỉnh thoảng có những vụn lớn bằng nửa
cái mày ngô, phản chiếu ánh nắng rực rỡ. Đó là những vụn
vàng, sàng được ở những bờ cát ngoài suối. Các cô gái trẻ đến
mua vàng về để đúc bông tai hoặc bịt răng. Ở đây ai cũng thích
có những chiếc răng vàng óng ánh.
Hỏi một cô gái bán hàng:
– Suối có nhiều vàng không?
– Cũng có.
– Một ngày sàng được bao nhiêu?
Cô gái lấy móng tay gảy lên dăm bảy vụn vàng bằng dăm
bảy hạt cát.
– Vất vả không? Mỗi ngày sàng bao nhiêu sàng?
– Chẳng đếm được! Phải ngồi lâu lắm, đau lưng lắm.
Rồi cô gái nói thêm:
– Càng muốn được vàng đẹp, càng phải sàng lâu.
Ngày 4 tháng 4.
Trưa nay gặp một đoàn thợ gỗ. Thấy họ vào ăn nhờ trong
chùa.
Ở các nhà Lào, từ đời này qua đời khác, bữa ăn nào người ta
cũng thổi thêm xôi, dành làm phúc cho khách lỡ đường.
Nhưng đoàn thợ gỗ không lên nhà ai vì họ đông, phải ra ngoài
chùa mới kiếm đủ thức ăn.
Người làng cắt lượt nhau, mỗi ngày dăm ba người nấu cơm
cho sư. Ai đến lượt đều sung sướng, làm cơm ngon canh ngọt
mang ra chùa. Cơm canh nhiều, sư ăn không hết, người ta đem
bày ra trước sân dành cho khách qua đường, không có khách
thì tung cho chim chóc làm phúc chứ không mang về.
Buổi trưa, đi qua một quán lữ khách: cơm canh bày sẵn, ai
cũng có thể vào ăn tự nhiên. Ăn xong, thành tâm thì làm một
việc gì đó cho nhà chùa: sửa sang lại cái hàng rào hoặc quét
những lá muỗm, những cánh hoa đại rụng lác đác trên sân…
Ngày 5 tháng 4.
Hôm nay nghỉ sớm. Được dự một cuộc vui bất ngờ. Khi
người dẫn đường đưa lên nhà ông pa-than thì đã thấy nhà đầy
người. Một ban nhạc ngồi bên những nhạc cụ ngổn ngang.
Những chiếc khèn ghép bằng mười sáu ống sậy. Vài chiếc
trống. Một khung tre bịt da, có đính một hàng lục lạc. Một dàn
cồng mười sáu chiếc, đặt thành một hình bán nguyệt, và đôi
dùi đầu bọc da voi. Cây đàn thuyền với một dãy những mảnh
gỗ dày mỏng khác nhau có hai que gõ gác chéo trên mặt.
Những cây nhị, bầu là những chiếc gáo dừa…
Đám thiếu nữ mặc xiêm áo ngày hội ngồi cạnh người trùm
phường đã đứng tuổi. Đó là những người hát của dàn nhạc.
Im ắng. Khách không dám động mạnh, rón rén đi lên.
Không ai chú ý đến khách. Mọi người nhìn đăm đăm vào một
căn buồng khép kín, từ đó có tiếng thở và tiếng lục đục vẳng ra
khe khẽ.
Bỗng cửa buồng mở tung. Có tiếng trẻ khóc oa oa. Một
người hiện trên khung cửa, trìu mến nhìn ban nhạc, tay khoát
rộng:
– Nổi nhạc lên! Nổi nhạc lên!
Họ chờ một đứa bé ra đời. Gian nhà ồn ào hẳn. Các cô gái
đứng dậy, sửa lại váy và bắt đầu múa. Thân thể và tay chân họ
mềm như những dây rừng. Tiếng trống bập bung, tiếng cồng
lanh lảnh và tiếng lục lạc rung rinh hòa với tiếng hát ngân cao.
Hai chiếc que gõ của cây đàn thuyền lướt nhanh trên những
phím gỗ bập bềnh. Các cây khèn lắc lư, ngả nghiêng, che lấp
khuôn mặt người thổi, chỉ còn thấy lấp ló những cặp mắt say
mê.
Những đứa bé đang bú mẹ cũng mở to mắt, lắng nghe. Tất
cả, cả người đưa đường, giậm chân làm rung rinh sàn nứa. Rồi
ai nấy đều say sưa hát theo nhạc và nhảy múa như những ngọn
lửa. Lúc này người nhà mới biết có khách vì chỉ riêng khách
đứng yên. Ông chủ nhà chạy lại mời:
– Anh em múa cùng cho vui. Mừng cho cháu bé ra đời!
Khách lắc đầu, cười:
– Bó hụ phon! Bó hụ*
Người đến mừng rất đông. Cuộc vui kéo dài đến xế chiều.
Chủ nhà mời khách ăn xôi, thịt gà và uống rượu pha với nước
dừa non, thoang thoảng hơi men. Trong lúc đó dàn, các cô gái
vẫn múa.
Người Lào đón một đứa bé ra đời như vậy.
Ngày 6 tháng 4.
Gặp những người Miến Điện từ Lào Bắc xuống. Họ mặc áo
cánh trắng, quấn váy xà rông sặc sỡ, khăn trắng buộc chéo
thành hai tai trên đầu. Ai cũng cao, gầy và đen. Đó là những
người thợ trổ chàm. Công việc của họ là trang trí cho bộ ngực,
đôi tay và hai cái đùi của các cậu con trai Lào. Hình chạm trổ là
những nét chữ ngoằn ngoèo đầu cọp, đầu voi hoặc những ô
vuông và những hình quả trám chằng chịt như mắt lưới.
Người đưa đường hỏi:
– Làm ăn có khá không, các bác?
– Ối! chẳng ra gì!
Những người thợ trổ chàm này đi khắp nơi trên đất Lào
như các ông phó cối dưới Việt đi đóng cối đây đó, tới khắp các
làng xóm.
Trước đây họ rất được ưa chuộng, được săn đón và mời cơm
rượu. Bây giờ họ vẫn được mời cơm rượu như bất cứ khách
qua đường nào khác nhưng không còn việc làm vì các cậu con
trai Lào không thích trổ chàm nữa. Mỗi thế hệ nghĩ về cuộc
sống một khác: ngày nay công việc được chú ý đến hơn cả là
xây dựng khu du kích và đi học.
Trước đây, ở các bản hẻo lánh không có trường. Con trai
muốn biết đọc, biết viết thì đi tu: nhà chùa dạy chữ. Vì thế hầu
hết con trai Lào đều ở chùa vài bốn năm. Đi tu vừa là nghĩa vụ
lại vừa được học, bao giờ đọc thông viết thạo, họ mới trở về
làm ruộng.
Ngày nay việc học được mở rộng, bản làng nào cũng có lớp
học buổi tối. Thầy giáo là cán bộ cơ sở, bộ đội. Cả làng đi học.
Các cụ già đầu bạc, các bà mẹ ôm con, các cô, cậu bé măng sữa,
tất cả cắm cúi trên những cuốn vở nhàu nát, dưới ánh lửa
những cây “cà boong”(nến trám) đầy khói.
Ngày 7 tháng 4.
Trời nóng hầm hập như một lò than. Không đâu có một
vũng nước. Khát khô cổ. Đến trưa thấy một nương giữa rừng.
Ai cũng háo hức rảo bước, hy vọng tới đó sẽ xin được nước
uống.
Nương vắng ngắt, chỉ thấy những cây gỗ cháy dở nằm ngổn
ngang. Ngô đã gieo nhưng chưa nảy mầm được vì nắng quá.
Từng dòng kiến rừng đông nghịt tha những hạt cơm khô.
Trong lúc chờ ngô nảy mầm, cứ vài ngày một lần, người ta cứ
phải rắc cơm khô trên lối kiến đi để chúng khỏi bới và tha mất
hạt giống.
Chòi canh dựng khuất ở một góc nương. Trong chòi có đủ
thứ: hai ống tre đựng nước, cái bếp, gạo, thịt khô. Ở một góc
có hai cây mía.
Người đưa đường rút dao, chặt mía thành những tấm nhỏ,
chia cho mọi người. Rồi bác đun nước, vo gạo, nấu xôi, nướng
thịt, tự nhiên cứ y như ở nhà bác vậy. Bác nói: người Lào dựng
chòi trên nương, không phải vì mình mà vì tất cả những ai cơ
lỡ.
Trước lúc lên đường, bác lấy một đồng “kíp” và xin hai viên
đá lửa, gói cẩn thận và treo lơ lửng giữa chòi. Ngày mai, người
chủ nương thấy gói quà sẽ rất sung sướng vì biết có khách lỡ
đường đã đến nghỉ và gặp may mắn trên chòi của mình.
Người đi xa trên đất Lào vẫn làm như thế: qua những vườn
mía, nương dưa vắng chủ, nếu cần thì cứ việc ăn rồi treo đâu
đó, ở chỗ dễ nhìn, một món quà.
Không ai lấy trộm những món quà ấy!
N
Chương III
gười đưa đường bỗng đi chậm lại. Bác hít hơi: có một mùi
gì lạ ở đâu đây. Các chiến sĩ chưa kịp biết nhưng bác thì
nhận thấy ngay vì bác vốn có những giác quan nhạy bén của
một người sinh ra trong rừng. Mùi thuốc lá. Nhưng không
phải thứ thuốc mà người Lào thường hút.
Có người lạ đang rình.
Bác chỉ vừa kịp báo cho các chiến sĩ biết để đề phòng thì đã
nghe tiếng quát ở một bụi cây trước mặt.
Đoàn người rơi vào một ổ phục kích. Như một con tắc kè,
người đưa đường lẩn ngay sau một thân cây rồi trườn vào bụi
rậm. Các chiến sĩ liền bám theo bác.
Địch xô đến. Lố nhố những lính da trắng và da đen. Đội
viên Sơn đi sau cùng, đứng lại tung vào giữa đội hình của
chúng một quả lựu đạn, giữ cho đồng đội rút. Lựu đạn nổ rầm,
mảnh quất ràn rạt vào các đám lá.
Anh em đã biến hết trong những lùm cây rậm. Lúc này Sơn
mới chạy.
Địch đang nằm rạp, chờ một quả lựu đạn nữa nổ nhưng
không thấy. Chúng liền nhỏm dậy và thấy Sơn đang chạy ở xa.
Thế là tất cả hò nhau đuổi theo. Có lẽ đến một tiểu đội địch.
Chúng vừa đuổi vừa bắn. Đạn réo bên tai Sơn. Anh vừa chạy
vừa lẩn vòng vèo sau những thân cây để tránh đạn nên khoảng
cách giữa anh và lũ giặc cứ ngắn dần.
Đã ra đến cửa rừng. Trước mặt Sơn là một dải ruộng. Bên
kia ruộng là làng và còn xa mới tới cánh rừng khác.
Sơn chạy vụt qua dải ruộng. Những khẩu súng sau lưng vẫn
nhả đạn theo anh. Anh chạy được vào làng, mất hút sau những
gốc muỗm cổ thụ. Anh nhảy vội lên một ngôi nhà, không còn
đủ sức và thời giờ để chạy tiếp.
Một bà mẹ và cô con gái đang ở trong nhà. Nghe súng nổ,
đàn ông đã bỏ cả vào rừng. Hai mẹ con hạ hết cửa, ngồi kéo
sợi. Tiếng xa quay đều đều làm không khí trong nhà rất bình
yên, cách biệt hẳn với không khí hốt hoảng bên ngoài.
Nghe tiếng chân nhảy lên thang, cô gái ngừng kéo sợi, đôi
mắt lo âu nhìn đăm đăm ra cửa.
Sơn lách vào.
– Phạ ơi! – Cô gái kêu lên.
Bà mẹ nén sợ, hỏi:
– Người là ai?
Sơn đứng trước mặt họ, hơi thở còn dồn dập vì chặng
đường vừa vượt qua. Quần áo anh bị gai xé rách tơi tả và quả
lựu đạn đeo bên sườn rung rung theo nhịp thở.
Sơn nói đứt quãng, câu được câu chăng:
– Con là bộ đội tình nguyện Việt Nam… Pha-lăng đuổi… cho
con trốn.
Bà mẹ và cô gái cùng lắp bắp:
– Thạ hán a xạ a mắc Việt Nam* …
Họ ngó nhanh một lượt khắp gian nhà. Họ thuộc căn nhà
của họ đến mức có nhắm mắt cũng biết được từng góc sàn,
từng kẽ vách.
Bà mẹ tuyệt vọng, khe khẽ lắc đầu.
Sơn nhìn hai mẹ con cô gái, chờ đợi. Họ đang sống bình yên
lại chưa biết anh là ai, liệu họ có muốn cứu giúp anh không?
Thấy cả hai mẹ con cùng lặng im, Sơn quay ra. Anh không
muốn làm khó cho họ. Anh sẽ chạy khỏi làng và khi cần sẽ
dùng đến quả lựu đạn cuối cùng.
Bà mẹ đứng dậy:
– Sao lại bỏ đi? Không kịp đâu!
Bà trông lên gác bếp. Đó là chỗ kín đáo nhất của căn nhà.
Trên ấy bà cất những giỏ mây, ống dang, những bẹ ngô giống
và những xâu thịt khô. Nhưng cái gác bếp không đủ kín để giấu
cả một con người.
Bà mẹ nghĩ tới căn buồng nhỏ của cô gái. Bà muốn nói với
con, tạm giấu anh bộ đội Tình nguyện vào buồng. Việc có quan
hệ tới cuộc đời của cô. Theo phong tục Lào, buồng cô gái là nơi
thiêng liêng, không một người lạ nào được bước vào. Người ta
tin rằng các cô gái không giữ được như vậy sẽ không được Trời
Phật ban phúc và sẽ bị mọi người khinh rẻ.
Nhưng chỉ thoáng nghĩ như vậy, bà mẹ đã thôi ngay. Bà biết
lũ giặc sẽ khám buồng, chúng chẳng bao giờ bận tâm đến
những phong tục mà làng bản của bà coi trọng.
Bà lại trông lên gác bếp.
– Mẹ giấu con lên đó, trong nhà chẳng còn chỗ nào kín hơn.
Cầu trời phật cứu giúp cho con qua nạn.
Sơn nhìn chỗ trốn. Anh không thể giấu mình trong đám đồ
đạc ít ỏi đó được. Nhưng bây giờ bỏ đi thì đã muộn.
Bà mẹ vừa định ôm những đồ đạc trên gác bếp xuống cô gái
chợt kêu lên:
– Mẹ ơi! Không được! Cái gác bếp sụt mất! Nếu không sụt thì
cũng thò chân ra ngoài.
Cô quay lại, chỉ vào bồ bông sau lưng:
– Vào đây hơn.
Bà mẹ gật đầu. Rất nhanh cô gái dốc vội bồ bông ra sàn. Cái
bồ nhỏ, chỉ chứa được vài ôm bông, nhưng càng nhỏ nó càng ít
bị chú ý.
Sơn vào ngồi trong bồ, cố thu mình cho bé lại. Anh tháo lựu
đạn ra cầm tay, co gối lên ngực, ép mình như một con cá người
ta kẹp chặt để nướng. Cô gái ấn bông mãi, đến mức anh tức thở
mới hết. Xong, cô tựa lưng vào bồ bông và bắt đầu kéo xa. Cô
lấy hơi cho bình tĩnh. Ngồi cách lưng cô gái một lớp nan bồ,
Sơn cảm thấy như trống ngực cô đập rất mạnh.
Bọn lính chạy rầm rập lên thang. Hai tên da đen cầm súng
có gắn lưỡi lê, co chân đạp cửa, bước vào. Một tên quan Pháp
và hai tên lính nữa vào theo.
Tên sĩ quan cúi chào như một người Lào trong lúc bốn tên
lính chĩa họng súng đen ngòm vào bà mẹ và cô gái.
– Xin chào! Xin chúc phúc!
– Xin chào a-nha*! – Bà mẹ và cô gái lạnh lùng nói.
Tên sĩ quan nhìn một lượt khắp gian nhà rồi dằn giọng:
– Trả người cho chúng tôi!
– Ai? – Bà mẹ hỏi.
– Người Việt! Vừa có người Việt chạy lên đây. Trả ngay nó
cho tôi.
– Không có ai lên đây. Nếu có người lên, chúng tôi đã kêu
dân bản bắt nộp cho a-nha, lấy thưởng. Từ lâu, chúng tôi đói
muối. Xin a-nha đi tìm nơi khác!
Tên sĩ quan cau mặt:
– Người Việt lên đây, tôi biết. Chẳng những nó làm hại
người Pháp mà làm hại cả người Lào. Trả nó cho tôi.
– Không có ai ở đây! – Bà mẹ nhắc lại, giọng nói vẫn đều đều
bình thản.
Tên sĩ quan nheo mắt, nhún vai rồi vỗ vào bao súng:
– Đừng nói dối! Ta sẽ bắt các người nói thật.
Tên sĩ quan lại nhìn khắp nơi. Thấy không chỗ nào có thể
giấu nổi một người, nó nhìn mãi vào căn buồng khép kín và ra
lệnh khám nhà.
Bốn tên lính xô đến bốn góc sàn. Gian nhà nhỏ, chẳng chỗ
nào đáng lục soát nhưng lũ lính vẫn sục vào khắp nơi. Chúng
lấy lưỡi lê chọc vào những chỗ chúng nghi ngờ, xiên lên gác
bếp, mở hòm và giũ tung quần áo ra sàn.
Việc đó diễn ra ngay cạnh bồ bông. Tiếng lục soát đập phá
vọng vào trong bồ. Những xơ bông theo hơi thở lùa vào mũi
Sơn trong lúc những đôi giày đinh cứ xiết mãi trên sàn nứa.
“Nếu chúng tìm thấy?” – Sơn tự hỏi. – Anh sẽ điềm nhiên
bước ra, vứt quả lựu đạn qua cửa và bảo chúng:
– Bắt tôi đi và đừng trả thù những người trong nhà.
Sơn biết lũ giặc sẽ không bao giờ hành động như vậy.
Chúng sẽ trả thù. Biết vậy mà Sơn vẫn không thể làm khác vì
trong nhà còn có bà mẹ và cô gái.
Nhưng bọn lính đã khám xong. Chúng vừa báo cáo vừa đập
gót giày ầm ầm trên sàn. Tên sĩ quan hất hàm, chỉ vào căn
buồng. Từ lúc lên, nó chỉ chú ý đến đó.
Một tên lính theo lệnh, đi ngay đến cửa buồng. Nhanh hơn,
cô gái vùng dậy, chạy lại dang tay chắn đường.
– Các a-nha, xin đừng vào – cô gái van lơn – tôi thề không có
ai trong ấy.
– Tránh ra! – Tên lính quát to.
– Đừng làm như vậy trước mặt mẹ tôi! – Cô gái lại van lơn.
Nước mắt tràn trên mí cô:
– Tôi xin! Đừng làm như vậy trước mặt mẹ tôi. Trong ấy
không có ai đâu.
Bà mẹ đứng dậy. Bà nghiêm trang đến trước tên sĩ quan:
– A-nha có con gái không? Nếu có thì đừng cho lính của anha làm như thế.
Trong lúc đó cô gái xô vào tên lính khi ấy đã đến trước cửa
buồng. Mắt cô trở nên ráo hoảnh và giận dữ. Một phát súng
bỗng nổ tung. Tên sĩ quan bắn chỉ thiên lên mái nhà rồi nhắm
mũi súng bốc khói vào ngực cô.
Một toán lính nữa chạy rầm rạp lên sàn. Hàng chục họng
súng và mũi lê chĩa tua tủa vào người cô gái. Bà mẹ gạt những
mũi lê, chạy lại che cho con.
– Thôi, đừng bắn! – Bà khẩn khoản. – Các ông vào đi!
Bà kéo cô gái ra ngoài:
– Mặc cho họ vào. Trời Phật sẽ trừng phạt họ. Ngày mai mẹ
sẽ cúng giải tội cho con.
Tên sĩ quan hằm hằm tức giận. Nó khẽ rít một câu gì đó
trong kẽ răng. Nó tin chắc mẹ con cô gái đã giấu người bộ đội
Tình nguyện trong buồng và họ giả làm như vậy để lừa nó. Nó
gườm gườm nhìn họ rồi từng bước, từng bước đi tới cửa
buồng. Đến nơi, tên sĩ quan đạp tung cửa bước vào.
Cô gái òa khóc.
Rồi lũ lính đi ra. Vẫn hung hãn như khi lên, chúng rầm rập
xuống thang. Mẹ con cô gái vẫn bàng hoàng, đứng sững ở chỗ
cũ. Lúc tiếng giày đã tắt, họ mới bừng tỉnh.
Cô gái quay lại nhìn bồ bông. Biết chắc người ngồi trong bồ
không trông thấy, cô ôm choàng lấy mẹ:
– Mẹ ơi! Mẹ ơi! Con sợ quá.
Cô đặt tay mẹ lên ngực mình:
– Mẹ xem, trống ngực con đập mạnh thế này!
Người mẹ nhẹ nhàng dìu cô gái ngồi xuống cạnh bếp:
– Thôi, ngày mai mẹ cúng cho con. Lạy Trời lạy Phật. Xin
người tha thứ và ban phúc cho con gái tôi.
Họ ngồi im cho đến khi nghe tiếng lục đục trong bồ: Sơn
cựa quậy, anh bị sặc bông.
Cô gái chạy lại, bốc bớt bông ra sàn.
– Bộ đội ơi! Nhờ Trời Phật thế là thoát rồi. Bộ đội ngồi yên,
chờ cho Pha-lăng đi xa hãy ra.
Sơn bật ho. Xơ bông cứ lùa vào mũi làm anh không sao chịu
nổi. Cô gái bối rối, gạt bớt bông cho Sơn thò được đầu ra ngoài
rồi đi lại bên bếp:
– Mẹ ơi! Đừng giận con – Cô ngập ngừng nói.
– Tại Pha-lăng, con có lỗi gì đâu!
– Không, chuyện ấy qua rồi. Bây giờ con muốn xin mẹ…
Cô gái lại ngập ngừng. Bà mẹ ngước cặp mắt hiền hậu nhìn
cô.
– Bộ đội ngồi trong bồ ngạt thở quá. Mà ngày mai đằng nào
mẹ cũng phải cúng cho con…
Cô gái không nói hết. Nhưng người mẹ đã hiểu, bà khe khẽ
gật đầu.
Giờ thì Sơn đã ở yên trong buồng riêng của cô gái tuy Sơn
hết sức từ chối vì sau nhiều ngày đi trên đất Lào, anh đã hiểu
chút ít phong tục của họ.
Sơn đứng bỡ ngỡ trong căn buồng nhỏ. Căn buồng tràn
ngập ánh sáng và không khí, mọi vật ở đó đều thơm tho trong
trắng. Ở một góc buồng, lưng chừng vách, có treo một tấm
gương lồng trong chiếc khung tre. Dưới gương là chiếc bàn
nhỏ, có một giỏ mây đựng trâm lược. Lược không bằng sừng
như những chiếc lược vẫn bán ở chợ mà gọt bằng gỗ, rất khéo.
Cạnh giỏ mây có một bó hoa rừng mới hái, cắm trong một ống
tre cưa ngắn và chạm những đường chỉ. Cao trên vách còn
thấy treo một chiếc dù chỉ xòe một nửa, giấu bớt những cánh
hoa in trên lụa nhưng cũng đủ làm tăng vẻ trẻ trung của gian
buồng.
Sơn nhìn đám chăn đệm. Đệm phủ một tấm phá Lào màu
trắng, viền những đường kẻ xanh lam. Sơn rụt rè ngồi xuống.
Trời dần về chiều. Địch rút hết về đồn, tiếng súng nghe đã
xa xa. Cô gái đã nấu xong bữa ăn tối và đốt cây nến trám buộc
lên cột sàn.
Sơn bỗng thấy có tiếng chân bước lên thang. Một giọng nói
quen quen chào bà chủ nhà. Sơn ngó qua kẽ phên, thấy người
đưa đường đang bước qua ngưỡng cửa. Sơn vội đẩy cửa buồng
chạy vụt ra.
Người đưa đường đứng sững lại, kêu lên:
– Phạ ơi, ai (anh) Sơn! Ai Sơn có làm sao không?
– Không sao.
– Pha-lăng bắn theo ai Sơn nhiều quá. Ai Sơn có bị thương ở
đâu không?
– Không! Thế anh Hưng và Đức đâu? Có người nào việc gì
không hở bác? – Sơn vội vàng hỏi lại.
– Bình yên cả. Mọi người đang đợi ai Sơn trong rừng. Ai
Hưng bảo tôi vào tìm trong bản, người ta chỉ tôi lên đây.
Bấy giờ bà mẹ mới mỉm cười, thong thả nói:
– Đấy, người của bác đấy, tôi trả bác. Nhưng lần sau đừng để
mất người như thế nữa nhé.
Người đưa đường vui vẻ cười hì hì:
– Tôi thấy mùi thuốc lá của Pha-lăng liền báo ngay cho anh
em mà không kịp. Lần sau tôi sẽ đi trước thật xa…
Sơn kể lại những phút gian nguy của mình và sáng kiến của
cô gái trong lúc cô vừa dỡ xôi gói vào những chiếc lá dong vừa
nhìn Sơn đăm đăm.
– Thôi, bây giờ thì con đi được rồi. – Người mẹ thì thầm, khi
cô gái đã gói hết xôi trong chõ. – Mẹ gửi cho anh em trong rừng
mấy gói xôi. Các con đi đâu, mẹ chẳng biết, nhưng bao giờ có
dịp thì ghé qua đây cho vui.
Sơn thấy lòng bồi hồi. Ở đây cũng như ở Việt Nam, có biết
bao người sẵn sàng che chở, cứu giúp anh. Sơn hỏi tên bà mẹ
và tên cô gái, ghi cẩn thận vào sổ tay.
– Nếu mẹ con ở dưới Việt Nam biết tin, chắc mẹ con cũng
muốn sang đây thăm và cảm ơn mẹ – Sơn nói. – Nhưng mẹ con
chẳng bao giờ đi được nữa vì đường xa quá mà mẹ con thì đã
già rồi.
Sơn lấy một chiếc gương nhỏ và dăm túm chỉ màu tặng cô
gái:
– Noọng sao (Em gái)! Cám ơn em! Cám ơn em lắm!
– Có gì đâu! – Cô gái khe khẽ nói.
Người đưa đường cầm những gói xôi, giục Sơn đứng dậy. Cô
gái bùi ngùi hỏi:
– Có bao giờ trở lại thăm mẹ, thăm em nữa không?
– Có! Nhưng lâu lắm. Một vài năm nữa, khi tôi trở về.
– Đừng quên đấy! Bao giờ về qua, nhớ ghé lại đây.
Cô gái đốt một cây nến trám, đưa Sơn và người dẫn đường
ra cửa, soi cho họ xuống thang.
Đi đã xa, Sơn quay lại vẫn thấy ánh nến sáng trên khung
cửa.
*
Mùa mưa sắp sang.
Chỉ còn một ngày nữa là đến Tết*. Một năm mới lại sắp bắt
đầu. Cả làng Vông-xay đã nghỉ việc từ mấy hôm trước.
Bác Bun-mi đang ngồi bên bếp. Từ chiếc tẩu bên môi bác,
một dòng khói lam mảnh dẻ bay lên. Bác mải nhìn các con,
quên cả rít thuốc. Lũ trẻ đang chuẩn bị đón ngày Tết, vừa làm
vừa sung sướng hát khe khẽ. Tiếng hát của chúng làm lòng bác
Bun-mi náo nức, như đưa bác trở về sống lại cái thời trẻ trung,
lúc nào cũng chờ đợi hội hè.
Mong có dịp để vui chơi sum họp, đó là thói quen của mọi
người ở làng Vông-xay. Mỗi khi có hội, làng bản đang im lìm
như vụt tỉnh dậy. Vì thế, ai nấy đều tìm hết cách để mở những
cuộc vui. Có người muốn dựng một căn nhà mới? Việc bình
thường như thế cũng đủ làm làng bản tưng bừng. Ở các làng
Lào không có tục thuê mướn người làm vì không ai có tiền để
trả công. Mọi việc đều nhờ bà con làm giúp. Người chủ thu
thập gỗ tre rồi gọi người làng đến dựng. Tối hôm trước, họ
cùng vợ con mặc quần áo mới, đi tới từng nhà. Hôm sau, cả
làng vui vẻ kéo đến làm việc dưới quyền một bác phó cả. Vợ
con người chủ cùng các bà các cô trong làng nấu một bữa cơm
ngon mời khách.
Buổi tối, khi công việc đã xong, mọi người ăn uống no say
rồi mở một đêm hội nhỏ mừng nhà mới. Đuốc đốt sáng trưng.
Các cô gái ngồi khép nép trên những chiếc chiếu, miệng nhai
trầu. Dàn nhạc nổi lên, trai làng thổi những cây khèn dìu dặt.
Một ông già hát theo nhạc một bài “lăm”, kể lại một câu chuyện
gì đó từ ngàn xưa…
Sống trong khung cảnh này, lũ trẻ cũng như người lớn,
khao khát hội hè. Cả năm, chúng tính từng ngày, từng ngày,
chờ Tết.
Chăm-pa, con gái bác Bun-mi, bận rộn suốt ngày với những
chậu nước thơm. Từ mấy hôm trước, cô đã cùng bè bạn đi hái
hoa: hoa hồng, hoa nhài và các loại hoa rừng. Cô đem hoa về,
cẩn thận lau sạch từng cánh rồi ngâm vào một chiếc bình lớn.
Vài ngày sau, nước ngả dần sang màu hồng của những cách hoa
và thoảng mùi thơm. Chăm-pa đánh bóng những chậu thau
bạc đầy những hình chạm, xinh xinh như những chiếc đĩa, cẩn
thận rót nước từ trong bình vào đó. Sau đấy, cùng với bác Bunmi gái, cô quét dọn nhà cửa, xếp ra sàn những chiếc mâm mây
mới và những tấm đệm sặc sỡ, làm chỗ tiếp khách.
Còn Khăm-phay, con trai bác Bun-mi, thì bận rộn cho chim
và cá ăn. Năm hôm trước, bác Bun-mi gái đã đổi một mựn (10
kí) gạo lấy một đôi cá chép và một đôi cu rừng xanh biếc, cổ
đốm trắng trông như những hạt cườm. Đôi cá lưng óng ánh
vảy bạc, bơi lượn trong một vại nước đầy, còn đôi chim cu thì
đứng trong lồng có hai máng tre đựng thóc.
Cho chim và cá ăn xong, Khăm-phay xuống chuẩn bị cho lũ
voi. Cậu bé rửa cái bồn ở chỗ cột xích voi, xuống con sông chảy
dưới chân làng lấy nước sạch đổ đầy bồn. Sau đó, cùng với các
quản tượng, cậu đưa voi đi tắm. Ngày mai là ngày hội lớn, ai
cũng muốn cho lũ voi của mình sạch sẽ, bảnh bao.
Đến chiều thì mọi việc trong nhà đã thu xếp xong. Bác Bunmi sửa soạn bữa ăn tối – một năm, có lẽ bác chỉ nấu ăn thay cho
bác gái vào bữa này, để vợ và hai con mang chim, cá ra bãi
sông.
Khi họ tới nơi thì bãi sông đã đông người. Ai cũng mang
theo một lồng chim hoặc một chậu cá. Rất nhiều thứ cá và đủ
loại chim: vẹt, chim gáy, họa mi, khướu, bách thanh. Có người
còn mang cả rùa và ba ba đến nữa. Hằng năm vào dịp này, họ
đem thả chúng đi để cầu phúc, chuộc lại những lỗi lầm mà họ
đã mắc phải trong năm cũ.
Các lồng chim đặt thành một hàng dài trên bờ cát trắng. Lũ
chim, thấy đông người, nhảy loạn trên những cắng tre trong
lồng. Một ông già cao tuổi trong làng đi đến chiếc lồng đầu
tiên. Lồng nhốt một đôi khướu bạc má. Ông mở cửa và đứng
tránh sang một bên. Đôi chim ló đầu ra khỏi cái cửa lồng chật
hẹp, đứng bỡ ngỡ một lúc rồi bay lên cao. Mọi người nheo
nheo mắt nhìn chúng bay đi. Ông già nói theo:
– Bay về rừng mà sống nhé! Lúc nào đi kiếm ăn qua làng thì
đỗ xuống hót cho chúng ta nghe.
Khi ông bước về chỗ cũ thì người nhà nào đến trước lồng
chim của nhà ấy. Bác Bun-mi gái thành kính mở cửa lồng. Đôi
chim gáy theo nhau bay ra. Chúng liệng trên cao rồi cùng với
đàn chim được thả, xao xác bay về rừng. Khi lũ chim đã bay
hết, mọi người thả cá. Bọn chúng ngúc ngắc cái đuôi, từ từ bơi
ra khỏi bờ và lẩn vào những tảng đá xanh sẫm nằm giữa lòng
sông.
Hôm sau, cả nhà bác Bun-mi cùng dậy sớm. Họ mặc quần áo
đẹp rồi dắt nhau ra chùa.
Ở ngoài chùa, các tượng phật được bày trên một bục lớn.
Gia đình bác Bun-mi cùng dân làng nghe các sư thuyết pháp và
dự lễ tắm cho phật. Nước tắm ngâm hoa thơm được giữ lại và
ông sư cả nhúng một nhành lá vào đó, rảy cho mọi người.
Về đến nhà, vợ chồng con cái bác Bun-mi chúc phúc cho
nhau và xin lỗi nhau về những lầm lỡ trong năm qua.
– Chẳng ai giữ gìn được suốt năm, thể nào cũng có lúc bực
mình nổi nóng – bác Bun-mi nói – Nếu tôi có điều gì không
phải thì mẹ nó và các con cũng đừng giận.
Bác gái gạt đi:
– Năm qua bố nó chẳng có lỗi gì. Chỉ có tôi vì bận việc nên
thỉnh thoảng còn gắt gỏng làm cửa nhà mất vui. Bố nó và các
con bỏ qua cho tôi nhé!
Bác Bun-mi gái nói thế nhưng thật ra bác chẳng gắt gỏng
bao giờ. Cũng như những người đàn bà Lào khác, bác làm việc
chăm chỉ, thầm lặng, dịu ngọt, nhờ thế mà không khí gia đình
lúc nào cũng êm ấm. Bác nói xong, Chăm-pa và Khăm-phay
cùng nói:
– Chúng con mới nhiều lỗi, còn tranh giành và nhiều lúc
mải chơi quên cả việc nhà. Sang năm chúng con không thế
nữa, bố mẹ tha thứ cho chúng con.
Cả nhà bác Bun-mi hẹn nhau sống một năm mới hòa thuận
hơn, êm ấm hơn. Sau đó họ đi thăm các nhà, rảy nước chúc
phúc cho bà con làng bản.
Tết Lào mở đầu cho mùa mưa, mùa mưa thì mở đầu cho
mùa cày cấy. Trong mấy ngày Tết, người ta té nước đón mùa
cày, tin rằng càng té nước trời càng mưa to, mùa màng càng
tươi tốt và ai được té ướt nhiều trong năm sẽ được hưởng
nhiều phúc lộc. Gặp ai, hai bác Bun-mi cũng nhúng tay vào
thau, búng nước thơm lên người họ, vừa búng vừa chúc họ
một năm hạnh phúc. Những người được rảy nước đều nhẹ
nhàng rảy nước lại cho hai vợ chồng bác và các con, chúc lại
những điều may mắn.
Trai gái và lũ trẻ thì nghịch hơn, họ hắt từng thau nước vào
nhau. Hết nước thơm, họ hắt nước sông. Ai nấy ướt lướt
thướt, phải thay quần áo hết bộ này đến bộ khác. Các quản
tượng phun người đi đường bằng những ống thụt, còn bầy voi
thì hít nước ở bồn và tia vào họ những tia nước lóng lánh, hệt
như những cơn mưa.
Giữa lúc cuộc vui đầu năm đang ồ ạt thì các chiến sĩ bộ đội
Tình nguyện Việt Nam vào làng. Nhìn thấy họ từ trên nương
xa đi xuống, cả làng đã chuẩn bị đón khách. Trai gái bưng sẵn
những thau nước thơm ra đợi ở cửa. Các quản tượng đổ thêm
nước vào bồn.
Các chiến sĩ cũng đã chuẩn bị. Được người đưa đường báo
trước, họ gói cẩn thận quần áo trong tấm vải mưa và lấy ống
nứa đậy vào đầu nòng súng.
Khi họ đi qua các nhà, người ta tới tấp hắt nước xuống và
vui vẻ hò reo:
– Chúc phúc cho anh em bộ đội tình nguyện!
– Chúc anh em khỏe và chiến thắng! Lào Việt xa-mắc-khi!*
Các chiến sĩ vừa vuốt mặt vừa hò theo:
– Lào Việt xa-mắc-khi!
– Chúc hạnh phúc cho các bạn!
Khi đến được nhà bác Bun-mi thì ai nấy đều ướt sũng. Thế
mà hai vợ chồng bác vẫn lấy nước thơm rảy tiếp lên người họ.
Cô bé Chăm-pa và cậu bé Khăm-phay bưng tới hai thau nước
hắt hết vào họ làm nước trên người họ chảy ròng ròng xuống
sàn.
Các chiến sĩ cũng lấy nước té lại cho vợ chồng con cái bác
Bun-mi. Họ vừa mới thay quần áo khô, lúc này ai ấy lại ướt
lướt thướt. Lũ trẻ cười khanh khách trong lúc vợ chồng bác
Bun-mi vừa giũ nước vừa xuýt xoa nói, giọng chứa chan hy
vọng:
– Năm nay rồi được phúc đây, ai cũng ướt đẫm thế này!
Gia đình bác Bun-mi được báo trước từ lâu, vẫn chờ các
chiến sĩ bộ đội Tình nguyện. Bác hỏi tên từng người, giới thiệu
với họ những người trong gia đình, hỏi họ về những chặng
đường họ vừa vượt qua rồi bảo Chăm-pa và Khăm-phay thu
xếp chỗ nằm cho họ. Lũ trẻ mang ra ba tấm đệm, xếp một dãy
ở gian ngoài rồi mang tiếp ra ba chiếc gối.
Bác Bun-mi căn dặn:
– Anh em thay quần áo khô rồi đi nghỉ. Từ giờ đến tối đừng
đi đâu nữa cho khỏi ướt. Ngày mai tôi sẽ dẫn anh em đi thăm
bà con trong làng.
Nhưng các chiến sĩ chưa được nghỉ yên. Vừa thay xong
quần áo thì các quản tượng, nghe tin bộ đội Tình nguyện đã
tới, liền dẫn ngay voi đến. Tiếng cười vui và tiếng chân voi
bước rầm rập dưới sàn.
Cậu bé Khăm-phay vỗ tay reo:
– Lũ voi đến chúc phúc đấy. Các anh tha hồ thích nhé!
Cô bé Chăm-pha thì bí mật thì thầm:
– Các quản tượng đến té nước. Các anh còn quần áo khô nữa
không? Nếu không thì trốn ngay vào sau nhà đi, chẳng lại ướt
hết mất! Trốn đi!
Các chiến sĩ không bỏ trốn mà vui vẻ ra thang đón đoàn
quản tượng.
– Me… ẹp! (Nằm xuống!)
Cùng một lúc, mấy chục tiếng hô vang lên làm các chiến sĩ
sửng sốt. Đó là các quản tượng ra lệnh cho lũ voi chào khách.
Bầy voi đông cả chục con, đứng thành một hình bán nguyệt
trước sàn, nghe lệnh liền nặng nề quỳ rạp xuống và tung vòi
lên, khua khua trên trời.
– Nhưn khư… ửn (Đứng dậy!)! – Các quản tượng lại hô vang.
Đàn voi ì ạch đứng dậy. Theo lệnh các quản tượng, chúng
răm rắp quỳ xuống đứng lên đủ năm lần. Rồi bỗng phụ… ụt:
các quản tượng cùng rút các ống phun đầy nước giắt ở sau
lưng, phun tung tóe vào các chiến sĩ.
– Chúc phúc cho anh em bộ đội Tình nguyện Việt Nam!
Họ cùng hô to rồi cười ha hả. Nước xối ào ào. Những bộ
quần áo mới thay của các chiến sĩ lại ướt đẫm.
*
Sau Tết té nước mấy hôm, bác Bun-mi lần lượt dẫn các
chiến sĩ đi thăm mọi nhà trong làng.
Làng Vông-xay gồm hơn ba chục nóc nhà. Các nhà đều to và
rộng, dựng trên những hàng cột nâu bóng. Trước nhà là một
khoảng sàn thênh thang, làm nơi ngồi trông trăng những đêm
hè. Khoảng sàn nhà bác Bun-mi càng to và rộng hơn vì đó là
nơi các quản tượng thường đến họp bàn công việc.
Ở Lào, như làng Vông-xay đã là một làng to. Người nào
trong làng cũng là quản tượng và mọi nhà đều nuôi voi. Nhà ít
thì một con, nhà nhiều thì hai, ba con.
Ngoài ra nhà nào cũng có trâu. Trâu thả rông suốt năm, tha
hồ sinh nở, đến mùa cày mới bắt về xỏ mũi. Mỗi con đeo một
chiếc mõ gỗ ở cổ, suốt ngày khua mõ lốc cốc ngoài rừng.
Bác Bun-mi dành nhiều ngày để đưa các chiến sĩ đến thăm
từng quản tượng. Khi thì chính bác dẫn đi, khi bận thì bác giao
việc đó cho Khăm-phay. Muốn yêu thích công việc gì thì phải
hiểu kỹ công việc đó, vì thế trước hết bác muốn họ biết rõ đời
quản tượng và biết rõ loài voi.
Mới tiếp xúc với các quản tượng, các chiến sĩ đã thấy ngay
họ là những người từng trải. Do công việc, họ phải đi lại khắp
nơi. Đời họ cũng như đời con voi, là những chuyến đi dài. Hình
như ở đâu đâu cũng có dấu chân của họ. Khi thì họ chở một
chuyến hàng xuống Cam-pu-chia, khi băng qua dòng Mê-Kông
sang đến tận miền tây Thái Lan, khi thì vượt Trường Sơn sang
các buôn làng Tây Nguyên của Việt Nam. Cũng có khi họ giong
voi lên Lào Bắc, vượt những cánh rừng đại ngàn sang tới
những công trường gỗ của Miến Điện. Họ biết rất nhiều
chuyện lạ ở nơi xa và ai cũng có trong túi đủ loại tiền: đồng
“riên” Cam-pu-chia, đồng “bạt” Thái Lan, đồng “ru-pi” Miến
Điện. Đến đâu họ cũng có tiền tiêu và thường mua các vật kỷ
niệm về bày đầy nhà: tượng các vũ nữ Khơ-me, những tập ảnh
về các đền đài Ăng-Ko, những chiếc khánh bạc mua tận chùa
Vàng ở Miến Điện, những tấm phá Xiêm bằng tơ bóng và đầy
màu sắc. Ở nhiều nhà, các chiến sĩ còn thấy những tập sách
dày nghiên cứu về loài voi, in bằng chữ Miến Điện hoặc Thái
Lan: phần đông đàn ông làng Vông-xay đều biết những thứ
tiếng và chữ ấy.
Những câu chuyện của những người quản tượng kể bên bếp
lửa dần dần đưa các chiến sĩ vào sống giữa bầy voi, mới đây còn
xa lạ với họ. Mỗi câu chuyện đem lại bao điều kỳ lạ, bao kiến
thức.
Các quản tượng quả quyết rằng loài voi chẳng những có sức
mạnh mà còn thông minh và có tình nghĩa chẳng kém gì con
người. Chúng được mọi loài trong rừng vì nể. Khi chúng đi ăn
hoặc xuống bến uống nước và tìm chỗ tắm, mọi thú vật đều
lảng tránh để chúng được hoàn toàn tự do.
Chúng sống với ý thức chặt chẽ về bầy đàn. Khi một con
trong bầy bị thương, dù thế nào cả bầy cũng đi chậm lại. Hai
con dìu hai bên, nâng đỡ bạn mỗi khi nó bước không vững,
một con đi sau tì đầu vào hông bạn mà đẩy, còn các con khác
bảo vệ chung quanh. Mỗi khi bạn khuỵu xuống thì chúng cùng
gào lên đau thương, lấy vòi lay đập hoặc hít nước phun cho bạn
tỉnh lại, cố đưa bạn đi xa hàng ngày đường tới nơi an toàn.
Tuy tinh khôn, thỉnh thoảng cũng có con bị sa hố bẫy. Đó là
bọn voi non và voi cái. Các hố bẫy được ngụy trang khôn khéo,
phủ một lớp cỏ rác và phân voi, cứ như có một bầy voi nào đó
vừa đi qua.
Lũ voi đực không bao giờ bị đánh lừa. Chúng thường thõng
vòi xuống dò đường, có gì lạ chúng liền đứng lại và kêu to lên
báo cho mọi đầu voi trong bầy cùng biết mà đề phòng.
Lũ voi cái thì khác: chúng luôn luôn cong vòi lên cao tìm
hơi lạ, bảo vệ cho bầy con, vì thế chúng không nhận rõ được
dấu đường dưới chân. Nhưng dù thỉnh thoảng có con sa hố,
các quản tượng vẫn ít khi bắt được nó. Lũ voi trong bầy xúm
đến, lấy chân giẫm cho đất ở miệng hố tụt xuống. Nếu đất rắn,
chúng đi hút nước về xối cho mềm. Những khối thịt nặng nề
của chúng làm đất lở rất nhanh. Chẳng mấy chốc chúng đã làm
xong được một đoạn đường thoai thoải và một con đực khỏe
mạnh thò vòi xuống cuốn lấy vòi con bị sa hố, kéo lên bờ.
Như các loài thú khác, loài voi có nhiều bản năng. Chúng
còn có nhiều hiểu biết, do chúng truyền dạy cho nhau từ lâu
đời.
Lũ voi bao giờ cũng giữ cho đường đi của chúng thênh
thang để dễ dàng chạy trốn khi bị săn đuổi. Vì vậy không bao
giờ chúng vứt cành lá ăn dở trên đường, làm đường bị ngáng
trở. Nhiều lúc vừa đi, chúng vừa quơ vòi sang hai bên kiếm
thức ăn, miếng nào không ngon thì chúng tung đi thật xa.
Nhưng lũ voi non không quen như vậy. Có lúc chúng quăng
thức ăn thừa ngay dưới chân. Lập tức voi mẹ bắt chúng làm lại,
cuốn những cành thừa ấy đặt vào vòi chúng rồi đẩy chúng sang
bên lề đường cho chúng đem ném đi xa.
Ngoài ra các quản tượng cho biết rõ những bí mật về cuộc
sống dẻo dai của chúng. Những điều bí mật ấy nằm ở đâu? Có
lẽ vì trước hết, chúng sống cuộc đời hoạt động nên luôn khỏe
mạnh. Ít khi gặp một con voi ốm trong rừng. Có những trận
dịch tàn phá nặng nề những bầy trâu bò, hươu nai, nhưng
chưa bao giờ nạn dịch tàn phá nổi một bầy voi. Lũ voi có nhiều
khả năng tự chữa bệnh. Khi đau ốm, chúng biết đi kiếm lá
thuốc. Khi bị thương, chúng lấy vòi vét đất sét đắp lên vết
thương, giữ cho ruồi khỏi bâu.
Trong rừng có những con suối kỳ lạ mà trừ loài voi, không
loài thú nào biết đến. Những con suối ấy chữa được bệnh. Voi
ốm hoặc bị thương được các voi bạn khỏe mạnh dìu tới uống
nước và đằm mình ở đó. Chúng quanh quẩn nơi đây ít lâu, thế
là bệnh khỏi, vết thương kín miệng. Các quản tượng già, suốt
đời đi theo dấu chân voi, biết rõ những con suối ấy.
Quản tượng làng Vông-xay kể cho các chiến sĩ nghe đủ
chuyện. Nhưng tất cả những chuyện này không làm họ yêu
thích bằng những chuyện về sự quyến luyến của loài voi đối
với con người.
Một bác quản tượng kể lại câu chuyện của chính bác:
“Một bữa tôi đưa voi vào đầm Bãi Thụt – bác nói. – tôi muốn
lấy một ít cỏ lác. Chưa đến nơi tôi đã nghe vẳng lại một chuỗi
dài những tiếng voi non rền rĩ. Tôi thúc voi đi nhanh. Tới nơi,
tôi thấy một chú voi con đang bị thụt bùn. Bùn đã ngập đến
nửa lưng nó. Bờ đầm đầy những dấu chân. Rất nhiều cành cây
bị bẻ gãy và ném ra gần chỗ con voi thụt. Chắc là bầy voi đã tìm
hết cách cứu chú voi non nhưng không xong. Chúng bỏ đi từ
lâu vì các dấu chân đã lạnh ngắt. Con voi non nhìn tôi bằng đôi
mắt van lơn. Đôi mắt cứ như bảo: “Bác ơi, đừng bỏ mặc tôi!
Đừng bỏ mặc tôi!”. Tôi mủi lòng, không nỡ đứng nhìn nó chết.
Nhưng cần phải có ván lót và dây thừng mà làng thì ở xa. Cuối
cùng tôi đánh voi về một làng gần đó, gọi người. Con vật tưởng
tôi bỏ nó, vội vàng rống lên nỉ non, nài nỉ tôi ở lại.
Tôi gọi được năm người quản tượng đưa voi đến giúp. Con
voi non đã bị bùn hút đến ngực, chậm một lúc nữa thì không
cứu được. Chúng tôi quăng xuống gần nó hàng chục tấm ván
rồi ném thừng cho con vật. Nó cuộn vòi vào thừng. Chúng tôi
cho năm con voi cùng kéo. Thừng căng bần bật. Con vật nhích
dần từng tí vào gần chúng tôi. Nó cố trườn lên các tấm ván.
Được các tấm ván đỡ, nó nổi lên dần và cuối cùng chúng tôi
đưa được nó vào bờ.
Đó là một chú voi non chừng mươi tuổi. Nó chưa đến tuổi
làm việc nên tôi không muốn bắt về. Mà dù nó đến tuổi làm
việc chắc cũng chẳng ai nỡ bắt: đã làm ơn thì làm ơn cho trót.
Con vật đứng run run, quơ mãi vòi lên người tôi để hít hơi.
Nó cứ đứng sát mãi vào tôi như cầu xin được che chở. Tôi cho
nó mấy miếng đường rồi xua nó đi. Nó tung vòi lên hít hơi tôi
một lần nữa rồi buông vòi xuống, ngửi và đi theo dấu chân mà
bầy nó để lại trên đường.
Chuyện đó rồi tôi cũng quên đi.
Vài năm sau tôi chuẩn bị làm nhà, cái nhà mà anh em đang
ngồi chơi đây. Tôi chặt hai mươi cây gỗ làm cột, đã cho voi kéo
về được bốn.
Một buổi sớm khi vừa giong voi đi làm, tôi chợt thấy hai cây
gỗ có dấu của tôi nằm ở ven làng. Tôi lạ lùng nhưng hỏi khắp
cũng chẳng ai rõ vì sao. Sớm hôm sau lại thấy hai cây gỗ nữa tự
nhiên chạy về.
Đêm đó, tôi ra rình ở ngoài rừng. Gần nửa đêm, thấy hai
con voi lễ mễ lấy vòi khiêng một cây gỗ đi tới. Đường rừng
không đi ngang được, chúng đi dọc, một con đi trước, một con
đi sau, hai con cùng quặt vòi sang một bên để quắp lấy cây gỗ.
Cây gỗ tuy không nặng lắm so với sức voi kéo nhưng mang đi
bằng cách ấy thì thật quá vất vả.
Tôi nhận ra con voi non đã được tôi cứu thoát khỏi bãi lầy
và một con voi cái rất lớn, dáng chừng là mẹ nó. Chắc là hai mẹ
con đã theo dõi, thấy tôi kéo gỗ về làng nên giúp tôi để cảm ơn.
Đôi voi đặt cây gỗ xuống. Rồi con voi non bỗng tung vòi hít
hơi. Nó rống khe khẽ, vui mừng vì nhận được hơi quen và lừng
lững đi tới quơ vòi trên mặt tôi. Mấy năm đã trôi qua nhưng
con voi biết ơn không quên dù nó mới chỉ ngửi hơi tôi có một
lần.
Suốt mấy đêm liền, đôi voi chuyển giúp tôi mười sáu cây gỗ
về làng. Những cây gỗ ấy chính là những cột tôi dùng để dựng
cái sàn này…”
Con voi là thế, chẳng kể chúng đã xuống làng hay còn ở
trong rừng. Vì vậy đối với chúng, các quản tượng vừa yêu
thương vừa vì nể. Thương và nể không phải vì sức mạnh, vì
khả năng làm việc, vì cái dáng trầm tư kiêu hãnh, nhưng trước
hết vì lòng tin tưởng mà con người có thể gửi gắm ở chúng.
Các chiến sĩ hiểu rõ điều đó sau những buổi chuyện trò với
các quản tượng. Dần dần họ cũng lây tâm trạng của người làng
Vông-xay: họ nhìn lũ voi không phải như những con vật mà là
những bạn bè.
*
Nắng chói chang. Nhịp sống ở làng Vông-xay như lắng
xuống. Im ắng. Bầy voi sau phiên việc buổi sáng, đứng gà gật
dưới bóng cây. Các quản tượng và các chiến sĩ ngồi bên khung
cửa, cố chờ một cơn gió hiếm hoi thoảng qua. Từ khung cửa,
nhìn thấy cánh đồng chạy đến chân núi. Một vài lầu gạo, nơi
các gia đình cất các bó lúa, đứng chơ vơ dưới nắng. Không
tiếng chim kêu, tiếng lá động. Buổi trưa Lào trống trải và xa
vắng lạ thường.
Nhưng rồi bỗng nghe có tiếng hát của các cô gái. Họ đi về
phía nhà bác Bun-mi. Mấy cô ngừng lại dưới một gốc me, lấy
sào chọc một túi me đầy. Các cô khác đi hái trái cà dại và
những trái ớt chín đỏ.
Xong xuôi, họ đứng vuốt lại mái tóc búi ngược trên đầu và
bước lên sàn. Lượt nào cô bé Chăm-pha cũng hớn hở ra đón
họ. Cô gọi:
– Các chị sang làm chua cho các anh ăn đấy! Thích quá!
Chăm-pa giúp các cô gái rửa những trái me chua. Họ lấy bao
nhiêu thứ: nào me, nào muối ớt, nào cà và lá thơm, đem giã và
lấy ra bát. Rồi khép nép, họ để bát lên một chiếc mâm mây.
Một cô xinh đẹp cất tiếng mời:
– Lại ăn chua, các anh!
Các quản tượng cùng các chiến sĩ lại ngồi đối diện với họ.
Cả gia đình bác Bun-mi cũng đến vây quanh chiếc mâm mây.
Một mùi chua và cay lẫn mùi lá thơm làm chảy nước miếng.
Họ vừa ăn vừa trò chuyện. Món ăn tầm thường nhưng theo
thói quen của người Lào, thiếu nó câu chuyện sẽ bớt mặn mà.
Thỉnh thoảng mọi người lại cùng ăn một miếng để xuýt xoa
và ngừng câu chuyện để nhìn nhau.
Các cô gái có những cặp mắt rất sáng và rất dịu. Họ trở nên
tươi cười vào những lúc sang mời các chiến sĩ ăn chua. Họ hỏi
các chiến sĩ bao nhiêu chuyện. Cái gì cũng làm họ lạ lùng. Họ
không được đi đây đó như các quản tượng, mà cuộc sống ở làng
thì bằng phẳng quá! Suốt ngày làng bản vắng ngắt, chỉ vui
được một lúc vào buổi sớm khi có tiếng chày đâm gạo rộn ràng.
Ở đây, người ta như mất cả thói quen cười vui. Trừ những dịp
hội hè, lúc nào con người cũng thầm lặng: người ta thầm lặng
làm việc, thầm lặng ăn ngủ, và lúc buồn cũng như lúc vui,
thầm lặng ca hát.
Vì thế các cô gái làng Vông-xay mong mỏi khách lạ và khao
khát chuyện nơi xa. Những buổi ăn chua làm những ngày
phẳng lặng của họ bừng vui. Chẳng những họ mà cả hai vợ
chồng bác Bun-mi cũng thấy mình trẻ lại…
Các cô gái hỏi:
– Bao giờ hết Pha-lăng thì các anh làm gì? Có làm quản
tượng nữa không?
– Có thể không, – tiểu đội trưởng Hưng trả lời – tôi sẽ về quê
làm nghề kéo mật. Làng tôi có nhiều lò đường. Thích lắm.
Những đêm vắng lặng nghe máy ép mía kêu cót két. Chảo nước
ép sôi lăn tăn, mùi đường ngọt bay lên nóng hổi.
– Còn tôi, tôi sẽ về đi biển, – Đức nói. – Làng tôi làm nghề
chài. Các sao có biết biển không? Rộng lắm, không biết đâu là
bờ bến. Nước xanh ngắt, có bao nhiêu là muốn tan trong đó.
– Phạ ơi! Có bao nhiêu là muối tan trong đó! – Các sao nhắc
lại, mắt tròn lên vì kinh ngạc. – Thế thì ở đấy chẳng bao giờ đói
muối, có phải không ai Đức?
– Còn tôi – Sơn nói tiếp – tôi về đi học. Tôi sẽ đi học cho đến
bao giờ biết được thật nhiều. Tôi muốn làm thầy giáo.
Bác Bun-mi ngắt lời anh:
– Ngày xưa, muốn học để thành “nai khu” (thầy giáo) phải là
con nhà dòng dõi…
– Nhưng sau này sẽ khác chứ! Người không có dòng dõi cũng
sẽ được đi học, chỉ kẻ lười biếng mới không học được mà thôi.
– Thế còn các sao? – Một chiến sĩ hỏi.
– Ngày nào bình yên thì thích lắm. Chúng em sẽ đi chợ thật
nhiều. Phiên nào cũng đi, chợ nào cũng đi. Không thì buồn
quá: làng bản đã vắng mà các quản tượng thì cứ đi biền biệt.
– Nếu có trường thì chúng em đi học. Chúng em cũng muốn
biết nhiều thứ như đàn ông.
Bác Bun-mi mỉm cười:
– Bao giờ hết Pha-lăng thì sung sướng. Ai muốn đi học thì đi
học. Ai muốn về làng làm nghề cũ thì về. Ai muốn đi chợ thì
đi…
Hình như những buổi ăn chua không còn là những buổi trò
chuyện mà trở thành những dịp để người ta mơ mộng. Ai cũng
mong mỏi có lúc tìm thấy phần hạnh phúc xứng đáng của
mình. Hạnh phúc ấy thật đơn sơ nhưng nếu còn Pha-lăng thì
người làng Vông-xay và các chiến sĩ chẳng khi nào thực hiện
được.
Bao giờ câu chuyện cũng kéo dài cho mãi tới khi lũ voi tỉnh
giấc ngủ trưa. Chúng rống lên đòi ăn trước lúc đi làm. Mọi
người luyến tiếc đứng dậy. Các cô gái ra về, các quản tượng thì
xuống cho voi ăn.
Buổi trưa vẫn nắng chang chang và vắng vẻ. Cây vẫn lặng
gió, ve không kêu, làng bản im lìm. Nhưng các chiến sĩ thấy
lòng nhẹ nhõm. Từ trên sàn, họ vừa nhìn xuống các quản
tượng đang tháo xích cho voi, vừa khe khẽ hát.
N
Chương IV
goài những dịp trò chuyện và các bữa ăn chua, ngoài
những giờ học tiếng và chữ vào các buổi tối bên bếp lửa,
suốt nửa tháng đầu các chiến sĩ chưa được học gì về nghề quản
tượng. Ai cũng sốt ruột. Trong một buổi sinh hoạt – các chiến
sĩ vẫn giữ nền nếp sinh hoạt đều đặn – Sơn và Đức đã yêu cầu
tiểu đội trưởng Hưng đề nghị bác Bun-mi bắt đầu dạy nghề cho
họ để sớm được đưa voi về nước.
Hưng chưa kịp nói thì một bữa bác Bun-mi đã bảo:
– Anh em biết qua công việc của người quản tượng rồi. Bây
giờ ta bắt đầu làm quen với lũ voi.
Mới đầu bác dạy họ bài hát dỗ voi. Ai đã là quản tượng,
trước hết phải biết bài hát này. Họ thường hát lên cho con voi
nghe khi cần an ủi nó sau một công việc vất vả hoặc khi con vật
có những dấu hiệu không vâng lời.
Hôm sau, bác Bun-mi trao Sơn và Đức cho hai quản tượng
giỏi trong làng, còn bác thì nhận Hưng làm phụ việc thay
Khăm-phay, cho Hưng chăm con voi Bạc-heng của bác.
Bạc-heng là một con voi đực đang tuổi làm việc. Nó có một
cặp ngà rất đep. Ngà trắng bóng, gốc đầy hai chét tay, mỗi chiếc
dài hơn một cánh tay và nặng có lẽ đến hai yến. Thật là một
con voi trẻ đẹp và khỏe mạnh. Khác hẳn với lũ voi đã đứng
tuổi, tai con Bạc-heng còn nguyên vẹn, chưa rách và chưa hề có
một vết lang, dấu hiệu của tuổi tác. Hai cái hốc ở trên đôi mắt
tinh nhanh của nó vẫn còn đầy, lưỡi và mồm nó lúc nào cũng
đỏ hồng. Người nó tràn trề sức sống. Không lúc nào con vật
chịu đứng yên: lúc thì lắc lư cái vòi, ve vẩy đuôi và quạt tai; lúc
thì đưa đẩy chân hoặc lấy chân nọ cọ vào chân kia; lúc thì ngả
đầu và mình sang trái, sang phải.
Bạc-heng về ở với bác Bun-mi đã hơn một chục năm và giúp
bác được rất nhiều việc. Công việc chính của nó là cùng các voi
trong làng đi chở hàng. Vì có sức khỏe, nó đã đi xa hàng trăm
chuyến. Con vật rất thuộc đường, chuyến đi nào cũng được xếp
ở hàng đầu và được coi là một trong những con voi đầu đàn của
làng Vông-xay.
Vào dịp nghỉ giữa các chuyến đi, Bạc-heng kéo gỗ. Nó kéo
rất khỏe. Một ngày nó đi bảy tám chuyến, mỗi lần kéo một cây
gỗ nặng hai, ba tấn. Được việc nhất là khi dùng nó phá hoang.
Nó lấy chân giẫm nát những cụm cây con và cỏ dại, lấy vòi
cuốn và rứt đi từng bụi rậm, đem xếp gọn vào một chỗ. Mỗi
ngày nó có thể phá hoang một thửa đất rất rộng. Muốn phá
được một thửa đất như thế bằng sức người thì phải mất cả
trăm ngày công.
Đã có người hỏi mua con Bạc-heng, đánh giá nó bằng hai
chục con trâu. Bác Bun-mi không bán. Nhưng rồi một lần thấy
bộ đội Ít-xa-lạ (bộ đội chủ lực của Lào) hành quân, ai cũng
mang vác nặng nề, bác bàn với người làng tặng cho anh em
mười con voi, trong đó có con Bạc-heng của bác.
Bộ đội Ít-xa-lạ đã lấy bảy con, còn gửi lại dân làng ba con,
tặng cho anh em bộ đội tình nguyện Việt Nam và nhờ bác cùng
dân làng dạy nghề cho họ.
Bác Bun-mi rất vừa lòng vì chẳng những con voi của bác
được nhận mà bác còn có dịp dạy cái nghề bác rất yêu thích
cho các chiến sĩ của bộ đội Tình nguyện.
Buổi sớm hôm ấy, hai bố con bác Bun-mi hái một sọt dứa rồi
đưa Hưng ra chỗ xích con Bạc-heng. Họ muốn cho con voi
quen hơi người quản tượng mới.
Bác Bun-mi trao cho Hưng một quả dứa, bảo anh đem vào
cho con vật.
Tuy đã nghe nhiều chuyện về sự khôn ngoan và tính thuần
hậu của loài voi, Hưng vẫn không khỏi rụt rè trước cái thân
hình to lớn và cặp ngà nhọn hoắt của Bạc-heng.
Bác Bun-mi khuyến khích!
– Vào đi, đừng sợ! Lũ voi không thích người chủ nhút nhát,
nhất là bọn voi đực. Càng mạnh bạo càng dễ bắt nó nghe lời.
Hưng bước tới. Mới đầu con voi nhìn Hưng bằng cặp mắt dò
hỏi. Nhưng rồi nhìn thấy quả dứa trên tay Hưng, nó biết anh
đến cho nó ăn. Anh chưa bước tới nơi, con vật đã vươn vòi ra.
Nó cuốn ngay quả dứa, khẽ mở đôi môi đỏ hồng hình tam giác,
thả vào đó và nhai ngon lành.
Thế là Hưng đã đứng bên cặp ngà của con vật. Ăn xong, nó
buông vòi xuống và hít hơi anh rất lâu.
– Đấy, có gì mà sợ! – Chú bé Khăm-phay vừa cười vừa nói. –
Anh cho nó một quả dứa nữa rồi gọi tên nó lên cho nó nghe.
Nghe lời cậu bé, Hưng chạy ra lấy một quả dứa nữa. Vừa
cho con vật ăn, anh vừa gọi tên nó. Con voi liền xòe rộng hai
tai, lắng nghe.
Cuối cùng bác Bun-mi bảo Hưng tháo xích cho Bạc-heng.
Xích tháo xong, con vật liền tự mình lẽo đẽo đi theo anh. Có
lúc nó đứng lại, mải tung vòi lên cây bẻ một cành lá non,
nhưng khi Hưng gọi tên nó thì con vật lại đủng đỉnh đi tới.
Trong mấy ngày liền, vào các bữa ăn, Hưng mang thức ăn
đến cho con vật. Thật là một công việc vất vả vì loài voi ăn rất
khỏe. Buổi sớm Hưng phải vác đến cho nó hai bó cỏ mật, một
chục thân chuối rừng và một thùng cháo. Buổi trưa anh bê đến
cho nó một sọt khoai, một sọt bí đỏ cắt thành từng miếng và
một thùng nước pha chút muối.
Chẳng bao lâu Bạc-heng đã quen với Hưng. Mỗi khi anh tới,
dù không mang theo thức ăn, con vật cũng hít hơi anh tỏ vẻ
vui mừng. Bấy giờ hai bố con bác Bun-mi mới bắt đầu cho anh
trèo lên cổ con vật.
Bác Bun-mi hô:
– Tin còn! (Chân trước!)
Con vật co một chân trước lên, khuỳnh khuỳnh như một
bậc đá. Hai cha con người quản tượng lần lượt vịn vào vòi con
vật, nhảy thoắt lên đứng trên cái bàn chân lù lù rồi trèo tiếp
lên đầu nó.
Họ làm mẫu mấy lần cho Hưng xem rồi tụt xuống trông cho
Hưng bước lên. Nhưng dù đã quen hơi anh, con voi vẫn không
muốn để Hưng trèo lên người nó. Nó không dám đặt chân
xuống vì bác Bun-mi chưa cho lệnh nhưng cứ hất hất chân như
muốn đá Hưng đi.
Hai bố con bác Bun-mi có thể quát nó đứng yên. Nhưng họ
không làm thế. Họ muốn để Hưng biết làm cho con voi tuân
phục bằng nhiều cách khác.
– Xa… ạng ơi…! Xa… ạng ơi… ơi!
Phăng đớ xa… ạng ơ… ơi!
(Voi ơi! Voi ơi! Nghe nhé voi ơi!)
Hai bố con bác Bun-mi cất giọng hát bài hát dỗ voi quen
thuộc. Khuôn mặt của họ trở nên đăm chiêu, giọng hát trầm
trầm kể lể. Con voi liền hếch cặp ngà và xòe ngang cả hai tai để
lắng nghe. Càng hát, giọng họ càng như trách móc. Lũ voi vốn
phân biệt được giọng nói của quản tượng: giận dữ thì nó lo,
buồn rầu thì nó buồn theo, vui vẻ thì nó mừng. Bạc-heng hiểu
được ý người, cọ cọ cái vòi xù xì vào vai hai bố con bác Bun-mi
và co chân lên cao thêm. Thế là con vật đã bằng lòng. Hai bố
con người quản tượng lại vui vẻ. Họ thưởng cho con voi một
quả dứa nữa và gọi Hưng lại.
Hưng tới trèo lên chân con vật. Nó co chân rất cao để anh có
thể dễ dàng leo lên đầu nó.
Sau vài lần, hai bố con bác Bun-mi tập cho Hưng lên mình
voi bằng các cách khác. Khi họ hô “Tin lăng” (Chân sau!), con
voi duỗi một chân sau ra cho Hưng trèo lên mông nó. Khi họ
hô “Mẹp!” thì con voi liền phủ phục cho Hưng trèo lên từ bên
sườn.
Cứ thế, hằng ngày hai bố con bác Bun-mi dạy cho Hưng mọi
khẩu lệnh. Dần dần con Bạc-heng quen với tiếng Hưng, anh
bảo gì nó cũng làm theo ngay.
Từ đó, Hưng được giúp bác Bun-mi điều khiển con vật
trong mọi công việc hằng ngày.
Buổi sớm, anh mang thức ăn đến cho Bạc-heng rồi chuẩn bị
cho nó đi làm. Anh lắp hai cái bao bằng sắt giống như bao
gươm vào cặp ngà của nó để ngà khỏi bị sây sát khi con vật
nâng những cây gỗ lên, xếp thành đống. Rồi anh đưa nó vào
rừng và cùng bác Bun-mi đóng xích cho nó kéo gỗ. Buổi trưa,
anh đưa nó về, xích dưới bóng râm cho nó nghỉ. Khi con vật đã
lại sức, Hưng giong nó đi kéo nốt chuyến gỗ buổi chiều. Trước
khi vào rừng, theo lệnh Hưng, Bạc-heng đến dưới giàn gác các
ống tre, tung vòi lên, ôm lấy từng cái ống rồi ra sông kín nước
về cho bác Bun-mi gái nấu bữa cơm tối. Cũng có lúc Hưng đưa
nó đi lấy củi. Con vật nhắm một cành cây vừa tầm, vươn vòi
lên, bẻ xuống. Hoặc nó lấy chân cào đất, lấy trán húc vào cây
cho cong, sau đó lấy hết sức tì chân lên để đạp đổ.
Con vật không bao giờ vội vàng, cứ đủng đỉnh và im lặng
cho tới khi công việc đã làm xong.
Sau phiên việc buổi chiều, Hưng thả cho Bạc-heng theo bầy
tự do đi tắm dưới con sông chảy ở ven làng. Nhiều bữa Bạcheng cùng với bầy voi đặt các trò vui trên bãi cát rộng, chơi
đùa cho bõ một ngày vất vả. Bạc-heng đi lại, tung vòi cuốn lấy
vòi một anh voi đực lực lưỡng, ra sức kéo co. Cả bầy liền tản
rộng, nhìn cuộc vui bằng những cặp mắt lim dim tinh nghịch.
Bốn cặp chân đồ sộ màu xám của hai đối thủ cùng căng
thẳng, các bắp thịt cuộn lên. Hai cái vòi lúc thì giãn dài, lúc thì
co ngắn. Bạc-heng lùi được một đoạn, con kia cố kéo lại. Rồi
bỗng Bạc-heng thót hẳn bụng, rụt đầu ra phía sau. Nó lấy hết
sức kéo đối thủ lết đi hàng chục bước, làm bãi cát lõm xuống
những đường sâu hoắm như đường cày. Sau đó Bạc-heng đứng
lại, mắt chớp chớp như bảo bạn: “Đừng giận nhé, chẳng có gì
quan trọng đâu, chỉ là đùa vui đấy thôi…”
Đùa nghịch đã chán, bầy voi lại vai chạm vai cùng lội xuống
sông, ngả mình nằm giữa làn nước trong xanh. Bạc-heng nằm
lặng im, khoan khoái, tận hưởng cái mát mẻ và yên tĩnh của
buổi chiều, cho đến khi trên làng nổi trống gọi thì con vật mới
thong thả lên bờ và cùng với bầy, lững thững đi về.
Bữa chiều, Bạc-heng và bầy voi được ăn theo ý thích.
Ở giữa bãi voi làng, các quản tượng đã chất đầy những thân
chuối, những bó cỏ mật và những bó lá rừng. Lũ voi đến đấy
không tranh giành cãi lộn, chọn những thứ mà chúng ưa nhất,
đủng đỉnh đem về nơi chúng ngủ. Bạc-heng cũng đi lại vài ba
chuyến, lấy đủ thức ăn để ăn đêm. Rồi nó đứng lắc lư bên cái
cột, chùng một chân, vừa ăn vừa lim dim mắt, như có điều gì
đang bận suy nghĩ.
Khi Bạc-heng ăn xong, Hưng đến xích chân nó vào cột. Con
vật hít hơi anh lần cuối cùng trong ngày. Một lúc sau con voi
của Hưng đứng im như đá: nó đã ngủ yên.
Làng Vông-xay gửi Sơn cho bác Thao Phêng. Bác là quản
tượng của con voi Sao-nọi. Tiếng Lào, Sao-nọi là “Cô bé con”.
Đó là một con voi cái đẹp và hiền. “Nó hiền như con chó con ấy,
ai Sơn à!” – bác Thao Phêng bảo khi Sơn đến làm phụ việc cho
bác.
Cái thân hình to lớn của Sao-nọi khiến Sơn e ngại. Nhưng
thật ra, con vật không khó tính như lũ voi đực. Nó rất dễ gần
và thông minh.
Nó là một trong những con voi được lựa chọn ở làng Vôngxay để bí mật chuyên chở vũ khí cho anh em bộ đội Lào qua các
vùng địch tạm chiếm. Vũ khí được buộc dưới chặt bụng nó;
con vật cùng với bầy đi như một đàn voi hoang. Bác Thao
Phêng bước sau chúng như một người đi tìm con trâu bị lạc.
Bác điều khiển chúng bằng tiếng chim. Khi qua quãng đường
nguy hiểm, bác kêu một hồi như chim hót và thế là bầy voi phá
chạy hệt như lũ voi rừng, ào ào qua con đường bị phục kích.
Bác Thao Phêng đưa Sơn đến bên cái vòi của Sao-nọi và gọi:
– Này Sao-nọi! Ai Sơn là quản tượng mới, nhận hơi đi!
Con voi lập tức vươn vòi lên, rà khắp người Sơn để ngửi
hơi. Đôi mắt nhỏ của nó chơm chớp liên hồi.
Chỉ vài mươi ngày sau, con vật đã quen với Sơn. Bác Thao
Phêng cho Sơn cây đòng nhưng chẳng bao giờ anh phải dùng
đến vì Sao-nọi rất vâng lời và sáng dạ. Chỉ cần Sơn nhích hai
chân kẹp ở cổ hoặc vỗ vỗ vào đầu nó là nó hiểu ngay ý định của
anh: con vật quỳ xuống, đứng lên, đi tới hoặc lùi lại, không để
Sơn phải hô một tiếng.
Được trao một con voi ngoan như Sao-nọi, Sơn rất vừa
lòng. Anh hết sức chăm lo cho con vật. Vào những buổi trưa
nóng bức, Sơn thường thấy Sao-nọi lấy vòi nhặt một cành cây
khua trên lưng để đuổi ruồi muỗi. Những bữa không tìm được
một cành cây vừa ý, Sao-nọi bứt rứt. Nó bồn chồn đi lại, cong
vòi lên lưng mà xì hơi.
Thấy thế, Sơn làm cho Sao-nọi một cái quạt. Anh ghép hai
tàu lá gồi, nẹp tre cho cứng rồi đưa cho Sao-nọi. Con voi xua
quạt trên lưng và thấy cái quạt đuổi ruồi tốt hơn những cành
cây mà nó từng nhặt được, nó lim dim đôi mắt tỏ ý vui thích.
Hết buổi trưa, khi xuống giong Sao-nọi đi làm, Sơn lấy cái
quạt ở vòi nó, cắm xuống một khe đất bên cái cột xích voi.
Hôm sau Sao-nọi bắt chước Sơn và từ đó thành một thói quen:
mỗi khi quạt xong, con vật lại cắm cái quạt vào chỗ cũ.
Một buổi trên đường đi làm về, Sao-nọi đưa Sơn qua một
gốc phượng rừng đầy những túm hoa vàng. Con voi ngừng lại,
đi quanh rồi rồi vươn vòi lên cao. Nó tìm một chùm hoa đẹp,
nhẹ nhàng bẻ lấy rồi đưa lên đầu cho Sơn.
Nó trả ơn người quản tượng đã hết lòng vì nó.
Làng Vông-xay trao cho Đức con voi đực Bạc-mày. Thoạt
đầu, cũng như mọi con voi trong làng, Bạc-mày rất dễ bảo. Chỉ
sau vài tháng, con vật đã quen với Đức và lưu luyến anh chẳng
khác gì nó lưu luyến người quản tượng chính.
Nhưng mấy bữa nay Bạc-mày bỏ ăn. Nó trở nên hiếu động
và hung hãn. Con vật giằng xích, bồn chồn đi lại quanh cái cột,
hệt như một con gấu. Cái chuông ở cổ nó không ngừng kêu
reng reng. Từ khi nó bắt đầu trái tính, Đức đeo cho nó một cái
chuông, cũng như người ta treo chiếc mõ ở cổ trâu, phòng khi
con vật giật xích chạy trốn thì theo tiếng chuông mà tìm nó về.
Chốc chốc Bạc-mày lại rống lên. Tiếng rống dữ tợn như
tiếng một con voi độc giữa rừng hoang, át cả nhịp chuông reo
lanh lảnh.
Năm nay Bạc-mày hai mươi tuổi, đó là tuổi thanh xuân của
loài voi. Bạc-mày cũng hồn nhiên và tinh nghịch như con
người vào tuổi ấy. Nó thường âu yếm hít hơi những ai qua lại,
có khi phun một tia nước vào họ rồi nheo nheo cặp mắt ra
chừng thích thú.
Bạc-mày không ra đời ở những khu rừng hoang dại cây cao
bóng cả, nơi tổ tiên nó đã từng ra đời, trái lại, con vật sinh ra
trên một nệm rơm êm ấm ở giữa làng Vông-xay. Mẹ nó khi ấy
mới về với loài người nhưng có mang nó từ ngày còn sống
trong rừng.
Lớn lên ở dưới làng, Bạc-mày rất thuần tính. Các quản
tượng không phải dạy nó điều gì: nó thuộc hết các khẩu lệnh
của họ từ thuở mới ra đời. Đến năm mười lăm tuổi, con vật bắt
đầu đi làm. Nó được đối xử tốt, được ăn no và làm việc vừa
sức. Cuộc sống chẳng có gì khó nhọc: Bạc-mày rất vừa lòng dù
dòng máu chảy trong người nó vẫn là dòng máu nóng hổi của
loài voi.
Thế nhưng nay con voi Bạc-mày đã hoàn toàn đổi khác.
Trước hết nó im lặng. Nó từ chối mọi sự săn sóc của Đức: khi
anh vuốt ve nó thì nó đạp đạp chân, tỏ ý bực bội. Rồi con vật
trở nên khó tính: hơi trái ý là nó nhìn gườm gườm, cong lưng,
đập tai và hươi đôi ngà lên một cách gây gổ, sẵn sàng nổi giận.
Nhiều lúc nó đứng u uất, nhìn đăm đăm về phía chân trời. Mắt
nó như đóng đanh vào các rừng cây và những ngọn núi biếc, từ
đó bay về mùi thơm của lá cơm xôi và của những ngọn thông
già.
Một nỗi khao khát về sự buông thả mà nó chưa bao giờ
được hưởng cháy bỏng trong người nó. Nó thèm được đi lại tự
do dưới những vòm cây hoang dại, không xiềng xích nặng nề ở
dưới chân, bên một con voi bạn cũng không xiềng xích như nó.
Nỗi khao khát kéo dài đến mức con vật thấy ngứa ran trong
các thớ thịt. Da nó đau đớn và run lên rùng rùng, như bị chích
bởi muôn nghìn ruồi muỗi vô hình. Đến đêm, khi trăng rừng
xanh biếc rọi vào mắt nó thì con vật không còn chịu đựng được
nữa. Nó đứng dựng dậy, hai chân sau căng thẳng, hai chân
trước chới với. Bụng nó như thót lại, bao sức lực được dồn cả
lên đôi vai để sẵn sàng chồm ra phía trước. Rồi nó vươn vòi lên
cao, thở hổn hển và rống những tiếng rền vang, vừa buồn
thảm vừa hung hãn.
Tiếng rống dữ dội làm thức tỉnh cả làng Vông-xay đang ngủ
im lìm. Người ta vùng dậy, đốt đuốc, cầm gậy gộc chạy đến.
Mặc, con voi không thèm chú ý đến sự náo động diễn ra quanh
nó, cứ giận dữ gào lên mãi. Chừng như những bản năng bị vùi
lấp từ lâu sống lại trong người nó. Không phải bản năng của
chính nó mà của tổ tiên nó gửi lại từ ngàn đời.
Bạc-mày đang qua cơn khủng hoảng mà bất cứ con voi nào ở
lứa tuổi hai mươi cũng đều trải qua.
Ngay giữa đêm ấy, người quản tượng của con Bạc-mày và
Đức cùng một số quản tượng bạn và bác Bun-mi đến chữa cho
nó trở lại thuần tính.
Thấy đông người, Bạc-mày càng muốn đập phá. Nó cứ đứng
dựng như một con ngựa bất kham, đôi mắt lúc bình thường
hiền dịu, lúc này giận dữ, bắt ánh đuốc, đỏ ngầu. Dây xích dưới
chân nó căng bần bật, như sắp đứt tung.
Con Bạc-heng lực lưỡng đem bác Bun-mi và Hưng trên cổ
cùng ba bốn voi khác vào sát con Bạc-mày, lấy vòi ấn nó đứng
xuống. Bạc-mày chống cự dữ dội.
Một người quản tượng trẻ nóng nảy đòi dùng cây đòng. Anh
khua cây đòng sáng ngời của anh trên đầu:
– Từng này người mà chịu một con voi à?
Bác Bun-mi gạt đi:
– Ấy chớ! Không phải lúc dùng cây đòng. Để nó cho tôi.
Bác Bun-mi không thích trừng phạt. Bác cho rằng lũ voi trẻ
tuổi, cũng như những con người vào tuổi ấy, cần sự khuyến
khích và gương tốt hơn.
Bác quay lại bảo Đức, Hưng, Sơn cùng người quản tượng trẻ
vừa nãy đã đòi dùng cây đòng với Bạc-mày:
– Con vật hung dữ thì người quản tượng phải hiền từ. Đừng
đánh đập nó, càng đánh đập càng làm nó nổi giận.
Bác Bun-mi điều khiển con voi theo những nguyên tắc của
bác. Bác thực lòng tin yêu con vật và không bao giờ bắt nó chịu
đựng những điều nó không chịu nổi. Loài voi cũng cảm giác,
cũng suy nghĩ, đau khổ hoặc sung sướng, yêu thương hoặc giận
dữ, chẳng khác con người. Tốt nhất là hãy công bằng với
chúng. Sự công bằng và những săn sóc có tác dụng đối với
chúng hơn là cây đòng. Bác Bun-mi thường căn dặn các chiến
sĩ: “Điều khiển loài voi khó hơn người ta thường nghĩ. Chúng
là những con thú có sức mạnh và có trí khôn. Người quản
tượng phải biết coi trọng sức mạnh và trí khôn ấy!”.
Bác Bun-mi cho Bạc-heng lấy vòi giữ chặt lấy vòi Bạc-mày.
Bác đề nghị:
– Cho nó uống thuốc rồi thả nó về rừng ít ngày.
Các quản tượng gật đầu, tán thành. Đức giật mình, hỏi:
– Người làng Vông-xay định thả con Bạc-mày thật hay sao,
bác Bun-mi?
– Phải. Khi một con voi muốn đi, hãy để nó đi, không thể
nào khác được. Bao giờ nó muốn thì tự nó sẽ trở về.
– Lỡ nó không về thì sao? Nó đang trong cơn điên…
– Nó sẽ trở về, ai Đức ạ! Lòng tốt của ta giữ chân nó. Khi nào
tỉnh lại, nó sẽ quay về.
Bác Bun-mi bảo người về lấy một nải chuối. Bác bóc vỏ,
nhét vào đó những viên thuốc rồi thong thả cho Bạc-mày ăn
từng quả. Khi nó ăn xong, bác ra lệnh cho Đức tháo xích dưới
chân con vật. Các voi khác giãn ra, nhường lối cho nó.
– Đi nhé! Đi vài hôm rồi trở về nhé! – Bác Bun-mi vui vẻ
chào con Bạc-mày.
Được buông thả bất ngờ, mới đầu con vật đạp đạp cái chân
rồi thấy chân đã nhẹ, nó rảo bước đi ngay ra khỏi làng. “Rung
reng… rung reng…”. Tiếng chuông kêu theo tiếng chân và dần
dần xa.
Đêm ấy, Đức và các bạn không sao ngủ được. Họ nằm tiếc
con voi, chỉ e nó không trở lại.
Nhưng mấy hôm sau, con vật đã quay về. Mới qua vài đêm,
chắc nó chưa kịp lên tới những con đường mà các bầy voi
hoang thường đi lại. Cũng có lẽ vì thuốc đã ngấm, cơn khủng
hoảng của con vật đã chấm dứt.
Nhưng còn một lý do nữa không kém phần quan trọng. Dù
có sức mạnh, con voi cũng như mọi thú vật khác, muốn nhìn
thấy hết thảy nhưng lại muốn che giấu mình. Đó là tính rừng.
Nhưng cái chuông ở dưới cổ Bạc-mày cứ kêu lanh lảnh. Bạc-
mày thấy mình bị nhìn rõ ở khắp nơi. Nó biết bất cứ lúc nào
cũng có những cặp mắt từ những bụi cây, những hang hốc rình
theo nó từng bước.
Có thể loài voi cũng biết suy nghĩ. Qua cơn khủng hoảng,
Bạc-mày tự thấy mình không còn thích hợp với cuộc sống bí
mật trong rừng. Nó quay về.
Bây giờ đang là bữa ăn chiều. Lũ voi bạn đón nó bằng những
tiếng rống vui vẻ. Con vật lại lững thững đi đến chỗ để thức ăn
ở giữa bãi voi làng, chọn những thứ nó thích, mang về bên cái
cột của nó.
Nó đứng ăn bình yên như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Nghe
tiếng chuông kêu ngoài bãi voi, Đức nhảy choàng từ trên sàn
xuống đất.
– Bạc-mày đã về! Bạc-mày đã về!
Vừa kêu, Đức vừa chạy đến, ôm chầm lấy cái vòi của Bạcmày. Hưng và Sơn cũng vội chạy lại. Họ đem theo một túi quả
“óc chó”, nhặt từng quả đưa cho con voi. Con vật tinh khôn
dùng vòi hít lấy, thả xuống chân, khẽ đạp cho vỡ lớp vỏ cứng
rồi đưa cái nhân trắng lên mồm nhai ngon lành.
Bác Bun-mi và các quản tượng khác cũng đã tới. Mọi người
hân hoan đứng nhìn Bạc-mày ăn. Đợi cho con vật ăn xong, các
quản tượng giúp Đức xích nó vào cột như cũ…
*
Hai bố con bác Bun-mi thường đưa các chiến sĩ đi tìm
những lá thuốc mà người quản tượng cần biết. Làng Vông-xay
cũng có một vườn thuốc, nhưng phải vào tận rừng sâu mới tìm
được đủ các loại lá cần dùng.
Con voi về dưới làng đôi lúc cũng ốm đau. Cách chữa bệnh
tốt nhất là thả nó vào rừng, nó đi đâu thì người quản tượng đi
theo đó. Do bản năng kỳ lạ, con voi tự tìm được những món
thuốc thích hợp.
Đưa những con voi ốm vào rừng nhiều lần, quản tượng làng
Vông-xay dần dần biết nhiều vị thuốc của loài voi. Con voi
kiếm dây sâm leo, lá bách bộ khi bị ho. Nó tìm sâm lá mít, cỏ
xước khi bị đau ở các khớp, ăn rau gai khi bị lở trong mồm, rau
lu lu, rau chóc khi sốt, kiếm cây thồm lồm khi đau bụng… Có
loại thuốc là cỏ, lá, có thứ là dây tầm gửi bám trên các thân cây,
là rêu mọc ở các bờ suối hoặc trong các hang hốc ẩm ướt,
nhưng có loại lại là rễ và củ nằm sâu dưới đất. Muốn lấy được
những củ và rễ đó, con voi hít nước phun cho đất mềm ra rồi
lấy vòi lắc và nhổ cây lên.
Vào những dịp nghỉ giữa hai đợt kéo gỗ, hai cha con bác
Bun-mi đưa các chiến sĩ đi rất xa. Họ không mang vũ khí như
những người săn bắt mà đi như những nhà nghiên cứu hiền
lành và vui vẻ, tới tận những con suối kỳ lạ, nơi voi hoang
thường tìm đến nghỉ ngơi và chữa bệnh.
Có những con đường thênh thang dẫn đến các suối ấy.
Chúng ở rất sâu trong rừng, luôn luôn ấm áp, bốc khói và tỏa
mùi lưu huỳnh. Nước trong vắt, sủi tăm, chảy qua những tảng
đá làm thành muôn vàn chiếc bong bóng, long lanh dưới các
tia nắng lọt qua vòm cây. Lũ voi hoang để lại ở đây bao vết tích:
những vết chân lui tới hằn rõ trên nền đất, có dấu đã rắn đanh,
có dấu còn mới, những thân cây bị mài mòn, những tảng đá bị
cọ nhẵn, những bến tắm kín đáo dưới những vòm cây cao lớn
hoang sơ và nguyên vẹn: lũ voi không bao giờ tìm thức ăn ở
bên những bờ suối này, giữ bí mật nơi chúng chữa bệnh trước
những cặp mắt tọc mạch của các loài thú rừng.
Ngoài những chuyến đi dăm ba ngày ấy, thỉnh thoảng hai
cha con bác Bun-mi còn dẫn các chiến sĩ đi săn, khi bồ thịt khô
và vò mỡ trong nhà đã gần cạn. Họ đi kiếm một con nai hoặc
một con lợn ở những cánh rừng dưới chân núi gần làng.
Nhưng cuộc săn nhỏ như thế thì một vài nhà tổ chức với nhau.
Bao giờ tìm được dấu thú lớn thì cả làng giong voi đi cùng. Đi
săn trên lưng voi cũng là những cuộc rèn tập: các chiến sĩ phải
luôn luôn ra những mệnh lệnh chính xác cho lũ voi, khỏi để
sổng con mồi.
Nhiều tháng trôi qua. Các chiến sĩ hoàn toàn quen với đàn
voi và có thể thay thế những người quản tượng chính. Mùa
khô cũng vừa tới. Sông và suối đã vơi, những cánh đồng trước
đây ngập nước, nay đã khô cạn. Những đoạn đường lầy lội,
không thể đi lại được trong mùa mưa, vào dịp này cũng se bùn.
Mùa lên đường đã tới. Làng Vông-xay tổ chức những chuyến đi
xa, sang Thái Lan hoặc lên tới vùng biên giới Lào Bắc, giáp với
nước Miến Điện, hoặc xuống miền cực nam giáp Cam-pu-chia.
Cả làng tấp nập chuẩn bị cho những chuyến đi kéo dài hàng
tháng. Các bà nội trợ sửa soạn thức ăn ăn đường, gạo nếp, thịt
khô, mắm cá, nồi niêu, bát đĩa… Các chiến sĩ thì cùng các quản
tượng sửa sang lại bành voi, dây chằng, vỗ cho lũ voi ăn béo và
chuẩn bị đồ đạc riêng, chăn màn, quần áo. Các quản tượng có
loại tiền gì đều mang đi hết. Các chiến sĩ đều được người làng
Vông-xay phát một ít đồng “bạt”, đồng “ru-pi” và đồng “riên” để
có thể mua những vật kỷ niệm nho nhỏ ở dọc đường. Họ còn
được học những câu thông thường tiếng Thái, tiếng Miến Điện
và tiếng Khơ-me để tiện liên lạc với người địa phương.
Ai cũng vui thích và náo nức chờ đợi từ hàng tuần trước.
Càng gần ngày lên đường, các chiến sĩ càng mong mỏi. Đêm
đêm, họ trằn trọc, thao thức. Cảnh lạ đường xa mà họ từng
nghe các quản tượng dày dạn kinh nghiệm kể lại cứ chập chờn
hiện ra trong mơ…
*
Bầy đếm được hơn ba chục đầu voi, có tám cặp ngà, do một
con voi cái già to lớn dẫn đầu.
Bác Bun-mi và người làng Vông-xay gọi chúng là bầy Đen để
phân biệt với bầy Xám, những tốp voi nguồn gốc Miến Điện và
Ấn Độ, to lớn, màu lông xám đỏ.
Bầy Đen đang trên đường đi xuống những triền núi phía
nam. Chúng đến rừng cọ vào mùa nảy lá, đến rừng chuối khi
các cây non bắt đầu lên cao và giờ đây chúng tìm xuống đồng
bằng vì một mùa mưa nữa lại sắp bắt đầu. Trong khi đó,
những tốp của bầy Xám đi theo con đường ngược lại. Rừng quê
hương của bầy Xám cũng đang tươi xanh. Bọn chúng trở về,
qua những dãy núi cheo leo của vùng Lào Bắc, tạt sang phía
tây, vượt những thác ghềnh của sông Mê-kông, tới những cánh
rừng Miến Điện hoang vu, tạm chấm dứt cuộc đi ngàn dặm.
Từ mùa xuân, bầy Đen đã vượt hàng trăm ngọn núi. Trước
đây mươi năm, bầy chỉ mới đếm được mươi lăm đầu voi trong
đó có dăm voi cái. Cứ ba năm, mỗi con voi cái đẻ một lần và
bây giờ thì bầy đã đông đến mức không thể ngừng lại ở đâu lâu
hơn ba ngày mà không bị đói. Nhu cầu quá lớn về thức ăn làm
chúng phải đi liên miên. Đời chúng là những cuộc đi vô tận,
trên những chặng đường gập ghềnh gian khổ.
Trên con đường muôn dặm, bầy Đen chờ đợi nhất mùa
mưa. Mùa mưa sẽ chấm dứt – dù chỉ tạm thời – những vất vả
vô tận của cuộc sống lang thang, mở đầu một thời kỳ nghỉ ngơi
no đủ.
Sang đến giữa tháng tư, nhịp đi bắt đầu gấp gáp. Thỉnh
thoảng đã thấy mưa rơi lác đác trên đường. Bầy Đen đi không
còn kể ngày đêm và bao giờ chúng cũng xuống đến đồng cỏ
đúng vào mùa mưa.
Một chiều, khi đến giờ nghỉ thường lệ, lũ voi của bầy Đen
không thấy con đầu đàn ra lệnh ngừng chân. Một vài con rống
lên dò hỏi. Đầu đàn không trả lời. Cuộc đi cứ tiếp tục. Rồi
trăng lên. Bầy voi vẫn đi dưới trăng. Con đầu đàn thuộc đường
biết rằng không bao lâu nữa bầy sẽ xuống đến đồng cỏ.
Khi bầy Đen ào ạt đi trong đêm trên triền núi sau làng và
khi con voi già đầu đàn bỗng nhiên rống một hồi dài thăm
thẳm thì bác Bun-mi choàng dậy. Đã bao đêm nay, bác chờ đợi
một tiếng rống như thế. Bác muốn tổ chức một cuộc săn lớn,
trước khi trao những con voi chủ chốt trong làng cho anh em
bộ đội tình nguyện Việt Nam.
Nghe tiếng rống vọng xuống làng, mọi nhà đều thức giấc.
Lũ voi buộc ở gốc cây thì buồn bực giậm chân và thở phì phì.
Bác Bun-mi chạy ra ngoài sàn. Đêm đã khuya. Mấy đêm
trước, mưa rơi lác đác, đến đêm nay thì mây đen bay tới đầy
trời. Dãy núi trước nhà như chìm mất trong mây. Chớp lóe xa
xa, sấm rền vọng lại.
Mùa mưa đã tới và thế là bầy Đen đã trở về. Một niềm vui
mạnh mẽ, niềm vui của những cuộc săn lớn làm một người
đứng tuổi như bác Bun-mi cũng thấy náo nức. Tuy bầy Đen đi
trên núi cao và giờ này chắc chúng đi đã xa nhưng bác Bun-mi
vẫn đứng lặng nghe.
Một lúc sau bác mới vào nhà và chất củi nhóm bếp.
Các chiến sĩ cũng đã dậy, đến ngồi cạnh bác.
– Tôi nghe như có tiếng voi hoang, bác à! – Tiểu đội trưởng
Hưng nói.
– Phải, bầy Đen đấy! Bầy Đen đã trở về – Bác Bun-mi trang
trọng trả lời. – Vài hôm nữa làng ta sẽ tổ chức một cuộc săn
lớn.
Ánh lửa lung lay trong lúc ngoài trời mưa bắt đầu rơi. Đàn
voi nhà cũng rống theo mưa. Lũ voi vốn là như vậy, chẳng kể
voi rừng hay voi nhà, cứ có mưa là chúng trở nên lắm lời.
Những giọt nước nặng nề lác đác đập trên mái nứa. Rồi
chẳng bao lâu nước trút ào ào.
Nhiều người đội mưa chạy lên nhà bác Bun-mi, mỗi người
che một tàu lá cọ trên đầu. Họ đặt tàu lá ở ngoài cửa rồi giũ
nước trên người, vào nhà vừa mừng rỡ nói:
– Bác Bun-mi ơi, bầy Đen về rồi!
– Bầy Đen về rồi! – Bun-mi sung sướng nhắc lại.
– Ngày mai ta đi chứ?
– Đi! Tôi và vài ba người đi thăm đất. Ở nhà anh em cứ
chuẩn bị đồ săn, cho voi ăn no, đợi tôi về.
Sớm hôm sau, bác Bun-mi cùng Hưng và hai người quản
tượng nữa lên đường.
Mưa đã ngớt. Trời lại sáng sủa. Trên lưng núi, những dấu
chân voi đầy nước mưa, dấu nọ đạp trên dấu kia.
Người theo dấu, từ bác Bun-mi cho đến các quản tượng ai
cũng biết nhận dấu và nhận hơi rất giỏi.
Bầy Đen có bao nhiêu đầu voi? Có bao nhiêu voi lớn, bao
nhiêu voi con? Chúng đã đi khỏi sớm hay muộn? Nơi nào bầy
voi kinh hoàng, nơi nào chúng đã bình tĩnh lại? Nên theo dấu
nữa hay thôi, có theo nữa cũng vô ích vì chúng đi đã quá xa…
Tất cả những điều đó đều đọc được ở dấu chân mà bầy voi để
lại trên đường.
Bác Bun-mi đi đầu, khom lưng bước theo dấu. Mỗi con voi
có một dấu chân riêng, bác Bun-mi đếm dấu và biết rõ số đầu
voi trong bầy Đen. Bác chỉ cho Hưng những dấu lớn giữa các
dấu khác. Đó là dấu của con đầu đàn. Những dấu ấy cách nhau
từng đoạn dài theo nhịp bước và hằn sâu, chứng tỏ đầu đàn là
một con voi lớn nặng nề. Nhưng to lớn đến đâu? Cao bao
nhiêu? Nặng bao nhiêu?
Bác Bun-mi lấy một đoạn đây đo vòng quanh dấu chân.
Vòng chân dài sáu gang tay. Con đầu đàn cao gần gấp hai lần
chiều dài ấy. Vòng bụng của nó gấp hai lần chiều cao. Còn sức
nặng của nó thì được bác Bun-mi ước đoán theo bề sâu của dấu
hằn trên đất rừng.
Rồi đoàn người bắt gặp từng đàn bướm đậu đầy trên dấu.
Bướm bay lên phấp phới khi bác Bun-mi cúi nhìn. Bác nói với
các quản tượng:
– Bướm nhiều thế này là dấu còn vương hơi, lũ voi rừng
chưa đi xa.
Bác Bun-mi nói không sai. Chừng một giờ sau, đoàn người
đã ra tới đồng cỏ và thấy lũ voi đang ăn ở đó.
Họ trèo lên một chòi rình, dựng sẵn đã mấy năm nay trên
một lùm cây. Từ trên chòi nhìn thấy cánh đồng bát ngát và một
dòng sông uốn khúc. Lau sậy mọc chen chúc, xanh um, và
những bụi tre mai uốn cong, rủ các lá rộng trên bờ cát trắng.
Bò rừng và hươu nai tự do kiếm ăn ngoài đồng. Chúng đi lại
thong dong. Khi mùa mưa bắt đầu, bầy voi từ trên núi xuống,
cuộc sống của đám bò rừng và hươu nai này trở nên an toàn vì
lũ thú dữ thường rình đợi chúng đã khiếp sợ bỏ đi. Phía dòng
sông, từng đàn chim te te và cò ngà lượn chập chờn trên mặt
nước. Thỉnh thoảng một đàn sáo lại bay lên từ một chỗ khuất
sau bờ sậy, vỗ lấp loáng những đôi cánh đen đốm trắng. Nơi đó
chắc có những bầy trâu rừng đang đằm bùn.
Ở đồng cỏ không phải chỉ có bầy Đen. Còn vài ba bầy voi
khác. Từ trong rừng lau rậm rạp, những cái vòi ngóc lên như
những con trăn lớn, vung vẩy bốn phía tìm hơi lạ. Hầu như
mọi bầy voi ở những triền núi chung quanh đều trở về đây. Từ
tháng năm, đồng cỏ bốc lên vùn vụt, thức ăn của chúng bao giờ
cũng thừa thãi. Chúng sẽ ở lại đây cho đến tháng mười, khi cỏ
tranh, lau sậy và các loại dây leo đã héo vàng, lúc đó chúng mới
bỏ lên núi để tiếp tục cuộc đi.
Một bầy voi bỗng rẽ lau đi tới. Những cái lưng đã được mưa
rửa sạch, bóng loáng dưới nắng, hiện ra ngổn ngang. Đông
lắm. Bầy Đen đấy. Bác Bun-mi đếm những con voi có thể săn
được. Khoảng chừng vài chục con. Bác nhắm sẵn dăm con, chỉ
cho các quản tượng biết. Làng Vông-xay chỉ đủ sức săn bắt
từng ấy.
Những con voi của bầy Đen bị cái nắng chói chang sau cơn
mưa thiêu đốt. Chúng đi tới bến tắm, nơi có mấy cây chò cổ
thụ tỏa bóng.
Nhưng có một bầy voi đã ở dưới bến từ trước. Loài voi vốn
sống có trật tự: con đầu đàn bầy Đen liền rống một hồi vang
vọng để báo hiệu. Con voi già của bầy đang tắm thong thả
nhỏm dậy, đi lên bờ. Nó lắc lư cái vòi như người ta khua cây roi
rồi vươn về phía bầy Đen, rống trả lời.
Bầy Đen liền ngừng lại.
Lũ voi đang tắm lục đục đi lên. Voi mẹ giục giã đàn con đang
mải nghịch lên cho mau. Rồi bầy đã được tắm mát lững thững
bỏ đi về phía chân núi.
Khi chúng đi khỏi, đầu đàn của bầy Đen đưa bầy xuống bến.
Lũ voi chờ đợi đã sốt ruột, thấy nước liền xô đẩy nhau bước
xuống. Một vài con đứng lại khi nước mới ngập đến khoeo
chân, khoan khoái hít nước tia lên lưng. Lũ voi mẹ đẩy các con
ra ngoài bắt chúng tập bơi, làm chúng sợ hãi rống ồ ồ và đạp
nước tung tóe. Nhiều con hụp hẳn xuống đáy sông, chỉ đề hở
cái mỏm sọ và cái đầu vòi để thở. Có con voi đực nằm nghiêng
hẳn sang một bên sườn, thoải mái, bình yên. Đôi ngà của nó
nằm dưới đáy nước trong veo, trông trắng lóa và to hẳn lên.
Tắm xong, bầy voi lũ lượt lên bờ, bắt đầu nô đùa. Lũ voi
non kính trọng và lảng tránh các voi già nhưng đùa nghịch với
nhau một cách thỏa thích. Chúng nghiêng ngó, đưa mắt tìm
kiếm, kêu những tiếng the thé, đĩnh đạc đến gần nhau. Lũ voi
già không lấy thế làm khó chịu, đứng nhìn với đôi mắt vui vẻ,
vẫy tai và khe khẽ giậm chân như để khuyến khích chúng đừng
sợ và hãy thả sức vui đùa.
Những người quản tượng quan sát bầy voi không chán mắt.
Nhưng họ quan sát không phải cho vui mà để đặt kế hoạch của
cuộc săn.
Họ ở trên chòi rình ba ngày đêm ròng rã. Mọi việc diễn ra
đều đặn như ngày đầu: bầy Đen đi ăn và đúng giờ đã định,
xuống bến tắm mát.
Không thể giong voi nhà xông vào một bầy đông như bầy
Đen. Tám cặp ngà trong bầy là một sức mạnh đáng sợ. Phải
chọn lúc.
Khi xuống bến tránh cái nóng thiêu đốt của nắng hè, bầy
Đen đã mệt mỏi. Các quản tượng định mở đầu cuộc săn vào lúc
ấy. Họ sẽ đưa voi nhà đến phục trước ở bến tắm, giả làm bầy
voi rừng. Chúng sẽ được tắm mát thỏa thích và lấy lại sức
trong khi chờ đợi.
Lúc bầy Đen đi tới, nghe tiếng con đầu đàn của chúng rống
báo hiệu đòi bến tắm, đàn voi nhà sẽ dũng mãnh xông lên.
C
Chương V
uộc sửa soạn của các quản tượng bị chậm trễ vì trời nổi
dông suốt mấy đêm liền.
Ba hôm sau, người làng Vông-xay mới lên đường. Họ giong
voi đi từ lúc trăng chưa lặn, gồm hai mươi con voi săn kèm
theo một con voi già có đóng bành để chở đồ đạc cần dùng.
Dù đồng cỏ cách làng không bao xa, bác Bun-mi và các quản
tượng vẫn đem theo túi đi đường, trong đựng các vị thuốc và
tiền của nhiều nước.
Thoạt ra khỏi làng, bầy voi nhà còn đi đủng đỉnh. Rồi quen
chân, chúng bước rất mau, chẳng bao lâu đã tới cánh rừng ven
đồng cỏ. Từ đó, chúng bắt đầu thận trọng đi chậm lại.
Nhưng khi bác Bun-mi đưa đàn voi đến cửa rừng thì đồng
cỏ đã vắng ngắt. Lũ voi đã bỏ đi. Còn ở lại chỉ có trâu bò và
hươu nai, chúng vốn không quen với cuộc sống nay đây mai
đó.
Đoàn người sửng sốt. Lũ voi đi đâu? Cái gì đã xua đuổi
chúng khỏi nơi này?
Bác Bun-mi chọn ba cỗ voi, cử hai quản tượng và tiểu đội
trưởng Hưng đi thăm dò tình hình. Ba cỗ voi đưa ba người
trinh sát đi ngang dọc khắp đồng cỏ.
Đến xế chiều, đội trinh sát trở về, đem theo một cặp ngà dài
đen sạm.
– Chúng tôi thấy xác một con voi đực to lớn nằm ở giữa cánh
đồng. Đôi ngà của nó đây.
Các quản tượng nói với bác Bun-mi rồi cho voi tiến lại, đặt
đôi ngà lên đầu con voi của bác.
Bác Bun-mi hỏi tiểu đội trưởng Hưng về tình hình cuộc
trinh sát. Hưng trình bày sự phán đoán của anh:
– Bầy Đen bỏ đi về phía nam. Dấu chân hỗn độn dưới núi.
Các dấu chân lớn đều có vết trượt, chứng tỏ cả đến những con
voi chủ chốt trong bầy cũng đã bỏ chạy. Có lẽ bầy Đen gặp một
tai họa khủng khiếp lắm nên mới hoảng sợ như thế.
Bác Bun-mi ôm một chiếc ngà lên, xem kỹ, ngửi mùi khét
của nó rồi lại đặt xuống đầu voi. Bác hỏi:
– Anh em có thấy dấu vết gì trên cái xác không?
– Xác đã được bầy Đen lấp kín. Khi bới ra, thấy cái xác có vết
cháy đen, chúng tôi đã cho lũ voi nhà lấp lại.
Bác Bun-mi vốn giàu kinh nghiệm. Nghe những lời đó, bác
đoán biết ngay được tình hình:
– Con voi chết vì sét. Luồng sét chắc mạnh lắm, cả đến đôi
ngà cũng bị cháy sém.
– Phải! – các quản tượng cùng trả lời.
Một bác quản tượng đứng tuổi nhận xét thêm:
– Từ khi bầy Đen xuống đến đồng cỏ, trong vùng ta chưa có
làng nào kịp đến đây mở các cuộc săn.
Bác Bun-mi và các quản tượng đã phán đoán đúng. Đêm vừa
qua, trong cơn dông tố dữ dội, sét đã đánh vào giữa bầy Đen.
Lũ voi non chạy tan tác như một bầy chim sẻ. Một con voi đực
to lớn đã chết. Loài voi vốn sợ mọi biến động: chúng sợ đá lở,
sợ sấm sét… Thế là chúng vội vàng rứt lau cỏ vùi lấp cho con bị
nạn và kéo nhau đi sau khi đã tập hợp được đầy đủ lũ voi non.
Chúng bỏ đi trong cơn hoảng loạn, làm các bầy voi khác
thấy trơ trụi cũng bỏ đi theo.
Một cuộc họp liền được triệu tập. Các quản tượng và phụ
việc ngồi trên đầu voi, thúc chúng đến vây quanh con voi của
bác Bun-mi.
Bác Bun-mi trầm trầm hỏi:
– Ta đã mất công theo dấu đến tận đây, bây giờ đi nữa hay
trở về?
– Đi nữa! – Các quản tượng cùng trả lời.
Trời đã gần tối, đoàn người không thể lên đường ngay
được. Họ phải ngủ lại ở đồng cỏ. Bác Bun-mi phân công cho
mười sáu quản tượng và tám con voi đi kiếm một con bò rừng
về làm thức ăn để ăn đường. Người còn lại thì đi vào ven rừng,
dọn chỗ ngủ và nấu bữa ăn tối.
Một khoảng đất rộng và cao ở ven rừng được dọn sạch. Rải
rác quanh các nệm lá trải làm đệm nằm, họ đốt những cây
hương lớn để xua muỗi.
Vài giờ sau các quản tượng đã đưa voi trở về, đem theo một
con bò tơ. Mọi người liền xúm quanh con mồi, xả thịt và hong
lửa làm thức ăn khô.
Sớm hôm sau đoàn người lại giong voi đi, theo dấu bầy Đen
để lại trên đường.
Dấu chân đi tới những cánh rừng phía đông rồi cứ men
theo những cánh rừng đó, đi xuống phía nam. Những vết trượt
đã mất, các dấu chân không còn hỗn độn. Dần dần hai bên
đường đã thấy cành lá bị bẻ gãy làm thức ăn. Bầy voi trở lại
bình tĩnh, chúng đã đi chậm lại.
Bác Bun-mi và các quản tượng thúc đàn voi nhà đi nhanh.
Con đường này họ từng đi quen, khi có những chuyến hàng
chở xuống Cam-pu-chia. Họ mong bắt kịp bầy Đen trước lúc
đến biên giới để lùa chúng quay về những đồng cỏ thuộc nước
Lào.
Nhưng bầy Đen đã đi xa. Chúng vượt khỏi biên giới trước
lúc bác Bun-mi và các quản tượng làng Vông-xay đến nơi.
Bác Bun-mi ra lệnh ngừng lại ở cạnh một làng Khơ-me đầu
tiên. Bác cho thả voi ở ven rừng rồi dẫn vài quản tượng có tuổi
cùng tiểu đội trưởng Hưng vào làng.
Bác có người quen trong đó.
*
Trời đã về chiều mà nắng vẫn chói chang. Nóng bỏng lưng,
chừng như càng xuống phía nam thì nắng càng gay gắt. Những
tràn ruộng quanh làng ngập nước phù sa, hơi nóng phả lên
hầm hập. Cua bò lổm ngổm đầy bờ nhưng không thấy ai bắt.
Hai bên con đường vào làng, cây cối được mưa tưới đã xanh
nhưng phảng phất vẫn thấy màu vàng lửa của mùa khô.
Những chiếc xe bò bánh cao tới ngang ngực, chở gỗ về làng,
kéo bằng những đôi bò lực lưỡng. Xe lăn khấp khểnh, trục rên
cót két. Đám đàn ông đánh xe đều cao lớn, người thì đi bộ,
người thì ngồi vắt vẻo trên càng xe. Ai nấy đều cởi trần, tóc
xoăn và da nâu bóng, thân quấn chiếc xà rông sặc sỡ.
Đã vào gần bên làng nhưng vẫn thấy im lìm. Mọi người còn
đang bận việc ở ngoài rừng nên chưa mấy ai về. Đường rợp
bóng những cây muỗm cổ thụ và những hàng thốt nốt. Nhà
cửa đều rộng rãi, sáng sủa dựng trên những dãy cột vững chãi.
Chúng vẫn mang những dáng dấp của nhà Lào, duy có mái nhà
thì dốc hơn. Hàng hiên kẹp những tấm phên thưa đan hoa
bằng tre cật vàng xuộm. Nhà nào cũng có những cây hồ tiêu.
Chúng leo trên giàn, buông những chùm quả sai chi chít hoặc
leo trên những thân cây khác và cố vươn lên để phơi được các
chùm quả ra ngoài nắng.
Chung quanh nhà là những cây thốt nốt, cao vượt khỏi tầng
cây dưới thấp, trên ngọn xòe một tán lá xanh. Một vài đứa trẻ,
ống tre giắt lủng liểng quanh lưng, leo thoăn thoắt lên ngọn
cây. Thấy khách lạ đi qua, chúng nhìn xuống gật đầu chào mỉm
cười, hàm răng trắng lóa trên khuôn mặt rất nâu.
– Lũ trẻ lấy đường đấy! – Bác Bun-mi giảng giải. – Đường
thốt nốt. Ở vùng đồng bằng sông Nậm-khoỏng của Lào cũng có
thốt nốt nhưng lác đác thôi.
Mọi người ngừng lại, ngước nhìn. Bọn trẻ leo đến ngọn cây,
rút dao rạch một đầu búp hoa, treo vào đó một ống tre. Đêm
nay nước thốt nốt sẽ rỏ vào ống và sớm mai, khi các ống đã
đầy, chúng lại leo lên lấy ống xuống cho mẹ canh đường.
Làng vắng vẻ nhưng phía con suối ngoài rừng thì đông
người. Nước suối ngầu đỏ đất rừng, dâng cao và chảy cuồn
cuộn. Nhân lúc tạnh ráo, người làng nô nức mang vó, mang
chài ra kiếm cá. Đàn ông đẩy những vó dũi dọc bờ suối, lượt
nào nhắc vó lên cũng được cá. Họ quẳng cá lên. Lũ trẻ hò reo,
tranh nhau rồi đưa cá cho các cô gái. Các cô đem mổ và gác lên
những giàn phơi ghép bằng phên dựng la liệt trên bờ. Bao
nhiêu là giàn phơi, đầy cá, trắng xóa ngoài bờ suối. Trên trời,
từng đàn chim trả xanh biếc liệng vòng. Chốc chốc lại thấy
một con rơi xuống nước như một hòn đá rồi bay vụt lên, mỏ
cắp một chú cá con lấp lánh.
Bác Bun-mi đưa mọi người tới một ngôi nhà giữa làng. Nhà
rộng, các cửa đều mở, sàn đất quét sạch tinh tươm. Xa xa, dưới
bóng một cây muỗm cổ thụ, một con voi đang đứng bên bồn
nước. Cũng giống lũ voi ở làng Lào, nó đứng chùng một chân
sau, mình đung đưa, thỉnh thoảng lại thọc vòi vào bồn, hít
nước phụt lên lưng.
Đây là nhà một người bạn quản tượng Khơ-me mà bác Bunmi vẫn ghé thăm mỗi khi đi một chuyến hàng xuống miền nam
Cam-pu-chia.
Bác Bun-mi và mọi người rửa chân rồi lên thang. Mới lên
hết thang, bác đã chào to:
– Chúng tôi ở làng Vông-xay sang thăm nhà ta đây! Ông già
Chau Xeng có nhà không?
Chủ nhà vội ra đón họ. Ông bước ra khỏi cửa, tay cài vội
mấy nút khuy của chiếc áo đang mặc dở. Cũng như mọi người
khác trong làng, ông già cao lớn, da rất nâu. Mái tóc của ông đã
trắng, trùm trên khuôn mắt nâu trông càng thêm trắng. Ông
quấn một chiếc “xăm pốt” màu gạch non, rất hợp với màu da
của ông. Một vạt của chiếc “xăm pốt” được giắt khéo léo ra sau
lưng, làm thành một thứ quần lửng đến ống chân, nom rất lạ
mắt. Khi ông bước, hai ống quần căng phồng lên, trông như
hai ống quần của một người đi ngựa.
Ông già Chau Xeng chắp tay cung kính cúi chào khách rồi
đưa mọi người vào nhà.
Một bà già đang ngồi canh đường trong góc sàn. Bà khuấy
nhè nhẹ nước thốt nốt trong một chiếc chảo to đặt trên bếp lửa
lom dom, làm mùi đường ngọt bay khắp nhà. Bên cạnh bà là
những bánh đường vừa đúc xong, nâu quánh và còn nóng hổi,
tròn như những chiếc đĩa, chồng từng chồng cao.
Thấy khách vào, bà liền đứng dậy cúi chào. Bà nói bằng
tiếng Lào:
– Chào các ông khách! Xin chúc phúc cho các ông!
Người vùng biên giới vốn nói được cả hai thứ tiếng. Bác
Bun-mi liền thành thạo trả lời bằng tiếng Khơ-me:
– Chào bà mẹ! Xin chúc phúc cho ông bà!
Ông già Chau Xeng mời khách ngồi xuống sàn, quanh một
chiếc mâm đan bằng mây nõn. Bà Chau Xeng đã rụt nhỏ lửa
bếp, đến tiếp nước. Bà bày lên mâm cho mỗi người khách một
chiếc tách sứ trắng mỏng tang. Bộ tách này bà phải đổi cho lái
buôn Hoa kiều mỗi chiếc bằng hai mươi bánh đường thốt nốt.
Bà đem đến một bình sành lớn, đựng đầy nước thốt nốt lên
men, rót mời khách uống.
Sau vài tuần nước, ông già Chau Xeng hỏi:
– Bác Bun-mi và anh em có việc gì mà ghé qua làng chúng
tôi? Lần này anh em chở hàng đi mãi đâu?
– Anh em chúng tôi không chở hàng mà theo dấu bầy voi.
– Theo bầy Đen?
– Phải!
– Chúng vừa đến đây được hai bữa – ông già Chau Xeng vừa
nói vừa chỉ về phía một dãy núi. – tôi đã cho người đi thăm
dấu. Chúng đang kiếm ăn ở cánh đồng chân núi, cách đây nửa
ngày đường. Làng chúng tôi đã báo với các làng xung quanh,
cùng mở cuộc săn lớn khi nước lên.
Bác Bun-mi liền trình bày về tình hình của bầy Đen và ý
định của người làng Vông-xay rồi nói:
– Làng chúng tôi tặng anh em bộ đội Tình nguyện Việt Nam
ba con voi, vì vậy chúng tôi muốn kiếm vài con khác trước khi
trao voi cho anh em về đơn vị. Chúng tôi đã cố công theo dấu
bầy Đen tới đây, xin cho được dự cuộc săn lớn, tốn kém bao
nhiêu xin nộp đủ lệ.
– Được! Được! – Ông già Chau Xeng hồ hởi trả lời. – Bầy voi
hoang có khác gì lũ chim trời, đỗ lại ở đâu thì thuộc người ở
đó. Hôm nay chúng ăn ở đây, chúng thuộc người làng này.
Nhưng đến đêm, nếu chúng ngược lên phía bắc, chúng lại
thuộc người làng Vông-xay. Cùng anh em ta cả, tiếc gì nhau,
nhất là lại bắt voi giúp cho anh em bộ đội tình nguyện Việt
Nam. Mời người làng Vông-xay cứ ở lại đây dự cuộc săn lớn.
Sau đó ông già Chau Xeng hỏi ngay:
– Thế anh em bộ đội Tình nguyện có ai sang đây không?
Bác Bun-mi vui vẻ chỉ vào Hưng:
– Đây! Anh em đấy! Học ở làng Vông-xay hơn một năm, nay
anh em cũng đã biết nghề quản tượng rồi.
Ông già Chau Xeng quay sang hỏi Hưng đủ chuyện và liên
tiếp rót nước thốt nốt cho anh uống. Bà vợ ông, nghe nói có bộ
đội Việt Nam cũng vội đến hỏi chuyện.
Một lúc sau, bà thì thầm bàn với chồng rồi đứng dậy chắp
tay, tươi cười nói:
– Bữa nay, xin mời khách ăn bữa tối với chúng tôi. Nhà được
khách đến đông, thật vui quá!
– Xin cám ơn! – Bác Bun-mi vội từ chối – Anh em chúng tôi
đông lắm, còn hơn ba mươi người nữa ở ngoài rừng. Cứ để
mặc chúng tôi lo thổi nấu lấy.
Ông già Chau Xeng xua tay:
– Một bữa ăn chứ có nhiều đâu mà lo. Năm nay được mùa,
thóc lúa đầy nhà, gà lợn đầy sân, cá khô đầy chum, đừng lo cho
chúng tôi.
Bà Chau Xeng liền ra ngoài suối gọi con đưa cá tươi về làm
cơm. Họ bắt gà, làm chúng vừa chạy vừa kêu nhao nhác dưới
sàn.
*
Mưa liên miên. Ngày nọ tiếp ngày kia, cứ đến chiều là trời
lại đổ mưa. Gió vật vã và mưa trút ào ào, trắng cả trời đất.
Những con suối dưới các chân núi tràn ngập các bờ đá chảy xối
về đồng cỏ.
Mọi loài thú đều đã bỏ đi trốn nước. Bọn hươu nai ra đi từ
những cơn lũ đầu tiên. Rồi đến các bầy bò và cuối cùng là
những bầy trâu chậm chạp. Ở cánh đồng chỉ còn bầy Đen.
Chúng đã qua cơn kinh hoàng, thả sức ăn no tắm mát. Chốc
chốc, mấy chục đầu voi lại đua nhau rống những hồi dài vì
khoan khoái.
Nhưng khi nước từ bốn phía tuôn về đồng cỏ, rềnh lên đến
khoeo chân thì bầy Đen bắt đầu lo ngại. Chúng kéo nhau ngược
lên phía bắc, định trở về những cánh đồng của nước Lào.
Nhưng lối về của chúng đã bị chặn. Đoàn người của bác
Bun-mi, được người địa phương giúp sức, đã dựng hàng chục
chòi rình trên những ngọn cây cao. Đàn voi của làng Vông-xay
cùng mười con voi bạn đứng dàn hàng trên các lối xung yếu.
Ở các ngả khác, đường cũng đã bị bịt kín bởi hàng chục voi
nhà và người của các làng lân cận.
Thoáng thấy bầy Đen từ xa đi tới, bác Bun-mi đã nổi hiệu
báo động. Trống, mõ, chiêng, tù và nổi liên hồi. Mọi người vừa
gõ vừa la hét. Bầy Đen hốt hoảng quay lại.
Nước mỗi lúc một dâng cao. Từ khoeo chân, nước ngập dần
đến bụng. Thế mà từ bốn phía, người và lũ voi nhà vẫn nườm
nượp kéo đến. Bầy Đen càng kinh hoàng. Chúng lại lội lên phía
bắc.
Nhưng lần này bầy voi tinh khôn không xông đến ngay.
Chúng lởn vởn ở ngoài xa, chờ đêm xuống, lợi dụng bóng tối để
chọc thủng vòng vây.
Bác Bun-mi thừa biết mưu mẹo của chúng. Khó lòng mà có
thể ngăn cản được bầy Đen trong bóng tối. Vì vậy, đêm vừa
xuống, bác Bun-mi đã cho lệnh đốt đuốc. Ở các chòi canh và
các ngả đường, hàng trăm cây đuốc cùng cháy bừng bừng.
Đuốc gài trên thân cây, buộc trên các ngọn sào dài trong tay
quản tượng. Từng đợt, từng đợt, khi có lệnh, trống mõ, tù và
cùng tiếng la hét lại nổi dậy trời.
Mặc, bây Đen vẫn xô tới. Chúng lao lại như những khối đá,
ngà chĩa thẳng, vòi cuộn lại và đưa lên cao, sẵn sàng bung ra.
Các quản tượng gí những ngọn đuốc cháy rần rật vào đầu
chúng. Nhựa đuốc bám vào da thịt chúng, cháy xèo xèo. Những
cái vòi quật vun vút. Nhựa liền bay đi từng đám, cháy rực và
rơi lả tả như mưa sao. Nhiều người đốt những tràng pháo dài
dặc, buộc trên sào, quay tròn trên đầu. Từ trên cành cây rất
cao, những người khác xỉa những sào tre dài, đầu vát nhọn vào
vòi lũ voi hoang.
Bầy Đen tổ chức hàng chục cuộc phá vây nhưng họa hoằn
mới thoát được một con. Cuối cùng chúng phải trở lại đồng cỏ,
biết rằng không thể làm gì được với lũ người can đảm và dai
dẳng này. Chúng tìm đến nấp ở các gò đất, dưới những bụi lau
rậm rạp.
Đến sáng sớm, trên các bờ cao, lưng voi nhà hiện ra la liệt.
Tất cả đều không đóng bành, mỗi con mang hai ba người trên
đầu. Người nọ ngồi xổm sau lưng người kia, ai cũng cầm
những cây sào dài nhọn hoắt.
Càng ngày người và voi nhà kéo đến càng đông. Vòng vây
khép lại, trùng trùng điệp điệp. Lũ voi nhà cứ ba con đứng
thành một khối, vững chắc như một pháo đài. Chúng cũng lầm
lì và dai dẳng chẳng kém gì người.
Đồng ngập nước trắng xóa, chỉ còn nổi lên những ngọn cây
bị nước cuốn vật vờ. Những bờ lau chơ vơ như những hòn đảo
cũng đang chìm dần. Lũ voi của bầy Đen trốn trong đó, nước
ngập đến lưng. Chúng đã bắt đầu phải cong vòi lên để thở.
Người trên bờ không trông thấy chúng, nổi pháo hiệu hỏi
các chòi canh. Các chòi gần xa đều nỗi pháo trả lời. Nghe pháo
nổ, từng đàn cò ngà kiếm ăn trên lưng voi xao xác bay lên. Thế
là bầy Đen bị lộ.
Lũ voi vẫn tưởng chúng trốn kỹ lắm, chẳng ai nhìn thấy.
Chúng không bỏ đi, cứ đứng im lìm trong các bờ lau, chờ cho
nước rút. Nhưng nước cứ dâng cao mãi. Nước ngập ngang lưng
rồi ngập lút đầu. Lũ voi của bầy Đen vẫn đứng im, cố thò vòi
lên khỏi mặt nước. Một vài con bị sặc, phun phì phì lên trời
những tia nước lập lánh.
Cuối cùng nước lút bờ lau, ngập đến mỏm vòi của lũ voi
non. Thế là bầy Đen đành nổi lên, con nọ tiếp sau con kia. Voi
mẹ rống lên rền rĩ, voi con gào sặc sụa. Cả bầy vùng vẫy tuyệt
vọng giữa khoảng trời nước mênh mông. Rồi vì mệt lử, chúng
bơi dần vào bờ.
Lúc này các quản tượng mới ra tay. Họ thúc voi nhà xua bầy
Đen bơi ra. Lũ voi nhà ngừng lại khi nước ngập đến ngang
lưng. Chúng cũng cuộn vòi lên cao để thở. Còn các quản tượng,
sau khi đã xua được bầy Đen ra xa, vừa chuyện ran vừa khoan
khoái khỏa chân xuống nước.
Từ trong các bờ bụi, thuyền lao ra như lá tre. Hàng trăm
con thuyền độc mộc, khoét bằng những cây gỗ lớn, hai đầu vát
nhọn và hai bên sườn đeo hai dãy ống bương để khỏi bị lật sấp
khi qua các xoáy nước. Mỗi thuyền có một người lái và hai
người chèo. Thuyền lướt vun vút, đứng đầu mũi là người
phóng lao. Người này chỉ mặc một manh quần cộc, da nâu
bóng như sành, vạm vỡ, tay cầm một mũi lao có ngạnh buộc
vào một dây xích. Trong sạp thuyền dưới chân anh ta còn ba
bốn mũi lao buộc xích khác nữa.
Ở phía bác Bun-mi, hai chục con thuyền lướt đến bên bầy
voi của làng Vông-xay. Các quản tượng trao đòng cho người
phụ việc rồi mỗi người nhảy xuống một thuyền, cầm lấy ngọn
lao và đứng ở đầu mũi.
Bầy Đen vì quá hoảng sợ, bơi tản mác mỗi con mỗi ngả. Cứ
ba bốn thuyền họp thành một nhóm, mỗi nhóm vây lấy một
con.
Nhóm thuyền của bác Bun-mi đuổi theo một con voi đực.
Con vật còn non tơ, béo tốt, cái lưng nần nẫn của nó hiện thấp
thoáng dưới làn nước. Cặp ngà đang độ lớn của nó vướng đầy
rêu, trở nên xanh biếc. Đầu nó cúi xuống nhưng cái vòi thì vẫn
uốn cong lên cao và thở phì phì. Khi thấy thuyền lướt tới, nó
quật vòi tung tóe.
Con vật rất dũng cảm nhưng quá vụng dại trước mưu mẹo
và vũ khí của con người. Người lái liền lái cho thuyền lạng đi,
tránh cái vòi đang quật. Đợi cho thuyền đỡ tròng trành, bác
Bun-mi ngả người ra phía sau, lấy hết sức phóng ngọn lao.
Lao bay đi, kéo theo dây xích loảng xoảng, cắm vào vai con
vật. Nó rống lên vì đau. Bác Bun-mi phóng một mũi lao nữa.
Lao xuyên qua tai con vật rồi mắc ngạnh. Một chiếc thuyền
khác bơi vút sang bên kia. Lao lại phóng. Cái tai còn sót của
con vật bị xuyên nốt.
Bác Bun-mi và các quản tượng rải xích, bơi thuyền đi. Thoạt
đầu con voi còn vùng vẫy chống cự nhưng rồi vì quá đau, nó
đành phải bơi theo thuyền.
Trong khi đó, cuộc săn bắt vẫn diễn ra sôi sục. Mặt nước
bao la cuộn sóng. Tiếng gào thét, tiếng kêu gọi rợn người.
Hàng chục con voi của bầy Đen đã bị bắt. Nhưng có nhiều con
không chịu khuất phục, giằng xích, cổ và tai rách bươm lõa
máu, kéo thuyền lật sấp. Chúng bơi vào bờ, rống những tiếng
xé không khí, hung hãn leo lên rồi đeo những mũi lao và dây
xích trên mình, chạy vào rừng.
Những thuyền bị lật trôi vật vờ trên mặt nước. Người ngã
xuống loi ngoi, kêu cứu. Các thuyền khác vột lướt tới trong lúc
lũ voi già căm hờn cố bơi nhanh lại để trả thù.
Bác Bun-mi cho thuyền giong con voi vào gần bờ. Thuyền áp
vào gần một cây cổ thụ, ngập nước tới chạc giữa. Bác Bun-mi
chọn một cành to, treo ngược ba dây xích lên.
Ở những cây cổ thụ kề bên, các thuyền lần lượt đem voi tới
xích. Voi nào chỉ mắc ngạnh một tai thì bị chọc thêm một mũi
lao nữa vào tai bên kia và cả hai dây xích đều bị buộc lên cành
cây.
Hơn một phần ba bầy Đen đã bị bắt. Trừ lũ voi già và voi
con không bị săn đuổi, trừ dăm ba con voi đực dữ tợn giằng
được xích, hàng chục đầu voi bị dẫn đến buộc rải rác dưới các
vòm cây.
Lũ voi phải bơi liên tục mới khỏi chìm. Bị bỏ đói, lại phải
bơi suốt ngày, con nào cũng mệt lử. Cái đói và cái mệt làm
chúng đỡ hung hãn. Không con nào còn sức để đập phá. Có con
phải vươn vòi, cuốn chặt lấy cành cây, giữ cho mình khỏi bị
nước cuốn trôi.
Hôm sau, các quản tượng đi thuyền tới, dòng dây song dưới
bụng chúng. Họ buộc dây lên những chạc cây chắc chắn, làm
cái võng giữ cho chúng khỏi phải bơi. Con nào cũng thả mình
trên võng vì đã quá mệt.
Nước rút tới đâu, các quản tượng nới dây thả chúng xuống
tới đấy. Đến khi nước rút hết, họ đưa voi nhà tới, cứ năm con
kèm một chú voi hoang. Bị bỏ đói lâu ngày, lũ voi rừng hầu
như đã kiệt sức. Chỉ nhấc chân lên mà chúng cũng đã thấy
mệt. Nhiều con thở dốc như đứt hơi. Bị xô đẩy giữa những cặp
ngà nhọn hoắt, giữa những cái vòi chắc nịch của lũ voi nhà no
nê và khoẻ khoắn, chúng lảo đảo bước về làng.
Đoàn người của bác Bun-mi bị mất một chiếc thuyền trong
cuộc săn, nhưng bắt được một voi đực và một voi cái, đều còn
non. Khi nước rút, một con voi ba tuổi lạc bầy, thấy con voi cái
liền lẽo đẽo đi theo. Thế là đoàn người làng Vông-xay bắt được
cả thảy ba voi rừng.
Ông già Chau Xeng và người các làng dành cho họ tất cả mồi
săn không bắt họ phải chia phần. Tuy vậy bác Bun-mi vẫn nộp
lệ phí và tặng quà cho họ. Bác nộp năm trăm đồng “riên”, một
chiếc chiêng Lào cỡ lớn, một cây đòng Vông-xay cho mỗi đầu
voi mà đoàn của bác bắt được.
Bác còn bồi thường hai trăm đồng “riên” cho người chủ
thuyền và tặng cho mỗi đầu voi năm trăm đồng “kíp” để các
quản tượng bạn có tiền tiêu khi họ có dịp qua đất Lào.
Ông già Chau Xeng thay mặt người làng nhận quà. Ông trả
lại cho bác Bun-mi tất cả số tiền “riên” và hồ hởi nói:
– Anh em cho chiêng, đòng và tiền Lào là quý lắm rồi. Bao
giờ người làng chúng tôi qua Lào là đã có tiền tiêu chơi. Nhưng
còn tiền “riên” thì trả lại để anh em có tiền tiêu khi qua bên
này. Còn cái thuyền thì không bắt đền, người làng sẽ kiếm
thuyền khác trả cho người chủ bị mất.
Bác Bun-mi đành nhận lại số tiền “riên”. Đoàn của bác còn ở
chơi dự hội liên hoan và những buổi tiệc mừng săn. Mấy hôm
sau, khi hội đã tàn, họ mới từ biệt ông già Chau Xeng và người
các làng, vui vẻ lên đường, đưa theo lũ voi vừa bắt được trở về
làng Vông-xay.
*
Lũ voi hoang được buộc dưới những gốc muỗm ở giữa bãi
voi làng. Các quản tượng dắt tới ba con voi cái lớn tuổi, buộc
mỗi con cạnh một con voi mới, làm mẹ đỡ đầu cho nó.
Con voi cái sống với con voi non suốt thời kỳ rèn dạy. Nó
dùng vòi vuốt ve hoặc ngăn trở các hành động bực bội của con
voi hoang, vừa làm vừa bền bỉ rống khe khẽ như có ý bảo:
“Đừng làm dữ! Cuộc sống ở dưới làng cũng dễ chịu, rồi con sẽ
thấy!”
Đêm đêm, lũ voi mới về vẫn thổn thức gọi bầy. Cuộc sống
dưới làng đối với chúng xa lạ quá!
Mới đầu những con voi sống sót trong cuộc săn còn văng
vẳng trả lời từ trên các triền núi. Nhưng rồi bầy bỏ đi xa:
chúng cũng phải đi tìm ăn. Mấy đêm sau lũ voi non vẫn rống
gọi, những tiếng rống trở lại nên rụt rè vì chúng không còn
thấy bầy cũ trả lời. Từ đó chúng lặng im.
Không bị đánh đập, được ăn uống no đủ, lại được săn sóc, lũ
voi hoang cũng khây khỏa và quen dần hơi người. Chiều chiều
chúng đã được tháo xích, theo mẹ nuôi đi tắm. Chúng thong
thả đi ra bờ sông, giữa đàn voi nhà đông đúc. Thấy sinh hoạt
đã trở lại bình thường, cũng như các voi khác, chúng khoan
khoái hít nước tia lên lưng. Con nào cũng đằm mình thỏa thích
và khi tiếng trống báo chiều tàn nổi trên làng thì chúng nhỏm
dậy, giỏng tai lên lắng nghe rồi rống từng hồi, luyến tiếc.
*
Mùa hè trôi nhanh qua. Đã chấm dứt những đêm mưa tầm
tã, chấm dứt những ngày nóng bỏng, nắng chói chang và hầm
hập gió Lào. Trời sang thu se lạnh, trong veo. Những dây lạc
tiên trên bờ giậu đã rụng hết hoa và điểm lá vàng. Các đồi
gianh quanh làng cũng vàng hoe một màu dịu mát của nắng
chiều. Đàn chim di cư sớm đã từ phương bắc bay tới. Đêm
đêm, khi bay qua làng, nhìn thấy những vầng lửa bếp hắt ra
ngoài các khung cửa, chúng bỗng kêu lên lanh lảnh giữa trời.
Đã đến lúc anh em bộ đội Tình nguyện Việt Nam phải trở
về. Làng Vông-xay tổ chức ngày hội quản tượng, vừa để trao
voi và trao cây đòng cho anh em, vừa để đưa tiễn anh em lên
đường.
Từ mấy hôm trước, làng bản đã nhộn nhịp, tưng bừng. Mọi
người tấp nập chuẩn bị. Sớm ngày hội, bác Bun-mi lấy bộ lễ
phục lâu nay bác vẫn cất kỹ trong hòm. Bác mặc sang như một
quản tượng ở kinh đô: áo cánh trắng tinh với hàng khuy đồng
vàng chóe cài đến tận cổ, quấn bên ngoài quần chiếc “phá sà
lùng” bằng lụa óng ánh đủ màu mua từ bên nước Thái. Bác
Thao Phêng và các quản tượng khác cũng đều xúng xính áo
mới, “phá” mới còn hằn nếp gấp, dép bằng da cá sấu loẹt quẹt
dưới chân. Đám phụ nữ còn ăn mặc rực rỡ hơn: những chiếc
trâm bạc chạm đá quý lấp lánh trên đầu, khăn tơ mềm quàng
chéo ngực, thắt lưng bạc sáng ngời ngang lưng.
Bác Bun-mi và đoàn quản tượng dẫn anh em bộ đội tình
nguyện tới dự các cuộc vui. Theo sau họ là đám đông trẻ nhỏ:
Chăm-pa, Khăm-phay và bè bạn của chúng. Các chú bé đều mặc
áo quần ngắn nhưng bọn trẻ lớn thì cũng áo cánh trắng, “phá
sà lùng” lụa, đĩnh đạc chẳng kém gì các quản tượng.
Ngày hội mở đầu bằng một cuộc thi pháo. Giá đặt pháo ghép
bằng tre ngà nhẵn bóng đặt thành một hàng dài trước sân
chùa. Trên mỗi giá, đặt một ống lệnh bằng tre cật đựng đầy
thuốc nổ, chung quanh bó chặt bằng dây mây để tức hơi, nổ
cho vang.
Theo lệnh của bác Bun-mi, những người dự cuộc thi lần
lượt châm ngòi. Khi ngòi bắt đầu cháy xì xì, các cô gái hồi hộp
đưa tay lên bịt tai và đứng sát vào nhau. Pháo nổ dậy đất, phun
một đám khói lam mù mịt. Giá pháo lung lay, ống lệnh vỡ
tung, tre và dây mây bị tước ra như xơ. Tiếng nổ làm các cô gái
giật bắn lên trong lúc các quản tượng thì thích chí, thi nhau
cười ha hả.
Sau khi đốt hết các ống lệnh, trai làng đặt pháo thăng thiên
lên giá. Các pháo thăng thiên được quấn những dải vải nhiều
màu để bay cho đẹp mắt. Mỗi chiếc còn mang kèm hai ống sáo
như sáo diều, một chiếc giọng thấp, một chiếc giọng cao.
Ngòi cháy, pháo bay lên, phụt một vệt dài lửa và khói sau
đuôi. Đôi sáo liền kêu những tiếng vi vu trầm bổng. Mọi người
đang ồn ào, vội im bặt để lắng nghe. Pháo mang theo những
dải vải màu phấp phới, bay vun vút, dần dần chỉ còn là một
chấm nhỏ trên bầu trời bao la, phải nheo mắt mới nhìn thấy.
Tiếng sáo cũng nhỏ theo, chỉ còn thoang thoảng như tiếng gió
khi đã lên hết tầm rồi bỗng văng vẳng to dần và càng vi vu hơn
khi pháo rơi. Có những chiếc pháo gắn cả một giàn năm sáu
ống sáo. Chúng không bay được lên cao tít tắp nhưng ngân
vang những hợp âm réo rắt như cây “khèn” Lào đang trong
khúc nhạc dạo đầu.
Thi pháo xong, bác Bun-mi đưa các chiến sĩ ra ngoài sông
dự cuộc thi thuyền.
Một chục thuyền đua đã đợi sẵn trên bờ. Thuyền đua cũng
vẫn là những chiếc thuyền độc mộc nhưng thon và dài, mũi và
đuôi đều cong vắt. Mỗi thuyền có chỗ ngồi cho hai mươi tay
chèo. Mọi người đều cởi trần, tay nắm chèo, mình đầy bắp thịt.
Tiểu đội trưởng Hưng xin phép bác Bun-mi cho các chiến sĩ
cùng dự cuộc vui. Họ chia nhau xuống các thuyền, ngồi lẫn với
trai làng.
Các thuyền sắp thành một hàng ngang trên mặt sông.
Người chỉ huy đứng ở mũi thuyền. Mọi tay chèo đều sẵn sàng.
Ai nấy đều đăm đăm nhìn bác Bun-mi chờ lệnh.
Bác Bun-mi nhặt dùi trống và dang rộng tay. Dưới thuyền,
trai tráng nhổm cả lên, sẵn sàng.
Dùi vừa chạm mặt trống, hàng trăm mái chèo cùng chọc cả
xuống sông và bắt đầu khoát nước. Bác Bun-mi thúc trống dồn
dập, chèo càng khua nhanh, nước bạc bắn lên lấp lánh. Người
chỉ huy đứng ở mũi thuyền, cúi lom khom, băm hai tay vào
không khí, miệng la hét thúc trai làng chèo cho nhanh và ăn
nhịp. Thuyền lướt băng băng, trong lúc trên bờ tiếng hò reo và
chiêng trống thúc ầm ĩ.
Sau cuộc thi thuyền mọi người đi dự các cuộc thi võ, đấu
lao, đấu gậy, bắn ná, đua voi và cưỡi ngựa bắt dừa.
Một quả dừa mới hái, bôi mỡ bóng nhoáng đặt trên một
khúc gỗ cao ngang tầm thắt lưng, bên dưới là những chùm dừa
bó từng ba quả một làm giải thưởng. Trai làng dắt đến những
con ngựa Lào nhỏ nhắn nhưng nhanh thoăn thoắt và rất dai
sức. Người nọ tiếp theo người kia, từ ông già, người trẻ cho
đến những chú bé đứng chưa đến vai người lớn thi nhau nhảy
lên mình ngựa. Họ nằm rạp trên lưng con vật, không yên
không cương, điều khiển nó bằng tai và bờm, phi vút qua, cố
ôm lấy quả dừa.
Các chiến sĩ cũng dự cuộc đua nhưng chẳng ai được thưởng:
quả dừa trơn tuột, mới chạm phải đã truồi trong tay họ và lăn
đi xa. Nhưng đối với người làng Vông-xay thì lại khác. Họ như
sống từ thuở nhỏ trên lưng voi, ngựa. Họ thúc ngựa phi vùn
vụt, nằm sát ngực trên mớ bờm dài và khi ngựa lướt đến khúc
gỗ thì họ bỗng dùng hai chân kẹp chặt mình con vật, vươn
người ra, lạng đi, hai tay hất quả dừa lên ngực và bắt chặt lấy.
Rồi họ kìm ngựa giữa tiếng hò reo, quay lai, thong thả đặt
quả dừa bôi mỡ lên chỗ cũ. Sau đó, họ tự nhặt một túm dừa
làm giải thưởng, trao ngựa cho người khác rồi rút dao phạt
núm dừa đến mời anh em bộ đội cùng uống.
Đợi cho các chiến sĩ uống xong, người chủ cuộc vui đến xoa
thêm mỡ lên trái dừa và liền sau đó, một con ngựa khác lại phi
tới.
Cuộc vui cứ thế kế tiếp nhau, kéo dài đến trưa.
Sau khi bữa rượu liên hoan đã tàn, làng Vông-xay làm lễ
trao voi cho các chiến sĩ.
Ba con voi Bạc-heng, Bạc-mày và Sao-nọi được tắm rửa sạch
bóng, trang sức thật lộng lẫy. Hai con voi đực, mỗi con đeo sáu
cặp vòng bạc lấp lánh ở đôi ngà. Còn Sao-nọi vì không có ngà,
được bác Thao Phêng kẹp cho hai mảng lá đồng lấp lánh ở hai
tai. Cả ba con voi cùng mang ngù hoa trên đầu, má bôi sơn
thành những hình như một tấm thổ cẩm. Chúng quàng ở cổ
một dây hoa rừng đủ màu sắc và những chiếc lục lạc sáng ngời,
mang trên lưng những tấm đệm sặc sỡ đầy tua xanh đỏ.
Theo mỗi bước chúng đi, dây tua rung rinh và lục lạc lanh
lảnh reo vui. Chừng như biết được vẻ đẹp của mình, lũ voi trở
nên vui vẻ khác thường. Chúng hít hơi bất cứ những ai lại gần
chúng, khẽ cọ cái vòi nham nháp vào họ và chơm chớp cặp mắt
nhỏ một cách sung sướng. Bác Bun-mi, bác Thao Phêng cùng
các quản tượng trịnh trọng giong chúng ra bãi voi làng trong
nhịp khèn dìu dặt của hàng chục trai làng. Họ buộc mỗi con
cạnh một chiếc bàn, trên có để một cây đòng sáng loáng và một
kẹp lá dài như lá cọ. Đó là tập lá “bay lan”, một thứ lá bền dai và
mịn bóng, có rất nhiều trong các rừng Lào.
Từ bao lâu nay, “tiểu sử” của lũ voi nhà được người các làng
voi ghi trên lá “bay lan” để truyền lại từ đời ông cha đến đời con
cháu. Không phải người làng voi thiếu giấy nhưng họ đã quen
dùng thứ lá rừng này từ ngàn xưa vì chỉ có nó mới giữ được
bền, thích hợp với đời sống dài lâu của loài voi.
Bác Bun-mi lần lượt dẫn các chiến sĩ tới chỗ từng con voi,
trước hết đến chỗ Bạc-heng. Bác đưa tập lá “bay lan” để trên
bàn cho tiểu đội trưởng Hưng đọc.
Tập lá ghi con Bạc-heng bao nhiêu tuổi, về với người trong
trường hợp nào, thái độ ngang tàng của nó sau cuộc săn bắt khi
nó chưa quen với đời sống dưới làng. Tiếp đó, tập lá chép lại sự
thay đổi tính nết của con voi, tên các quản tượng từ người rèn
dạy đầu tiên đến những người thường đưa dắt nó trong các
chuyến đi.
Những trang lá “bay lan” tiếp sau dành để ghi công trạng mà
Bạc-heng đã giúp cho làng Vông-xay. Những trang ấy dài dằng
dặc. Con voi đã dự hàng chục cuộc săn lớn, cứu người hai lần,
bị thương ba lần, từng thồ hàng đi xa hơn một trăm chuyến và
phá hoang cho làng Vông-xay mấy chục khoảnh ruộng và
nương rẫy. Gần đây con Bạc-heng còn theo lũ voi làng đi chở
súng đạn và lương thực cho bộ đội Ít-xa-lạ. Đó là những công
việc vẻ vang, người ta ghi lại trong tập lá “bay lan” bằng những
hàng chữ lớn.
Bác Bun-mi giở tập lá “bay lan”, lấy cây kim nắn nót trích
một hàng chữ to, viết tiếp “tiểu sử” của con Bạc-heng: “Hôm
nay là ngày… tháng… năm… người làng Vông-xay tặng con
Bạc-heng cho anh em bộ đội tình nguyện Việt Nam. Vậy viết
giấy này làm bằng, trao con Bạc-heng cho các chủ mới”.
Khi bác viết xong, một cô gái xinh đẹp bưng một chiếc khay
tới, trên khay có một bát mực đen và một bát vỏ trấu. Bác Bunmi lấy mực xoa vào hàng chữ, đợi cho khô rồi lấy một dúm
trấu xát lên lá. Thế là hàng chữ đẹp đẽ nổi lên, đen nhánh trên
nền lá đã được lau sạch mực.
Sau đó bác Bun-mi lại đưa các chiến sĩ đi viết tiếp trên
những tập lá “bay lan” của Sao-nọi và Bạc-mày. Sau khi viết
xong cho con Bạc-mày, bác vỗ vào vòi nó và nói với đàn voi:
– Các con về ở với anh em cho vui vẻ nhé! Đừng luyến tiếc
mãi làng Vông-xay nhé! Ở với anh em, các con sẽ được săn sóc
cẩn thận, được đi mọi nơi, khác nào ngày xưa các con từng
theo bầy đi lại khắp chốn núi rừng. Các con sẽ làm được nhiều
việc có ích hơn khi còn ở làng ta.
Nói đến đây, bác Bun-mi mủi lòng quay đi, thì thầm:
– Ta biết, rồi các con nhớ làng Vông-xay lắm! Nhất là cái con
Bạc-heng ấy, thế nào nó cũng bỏ ăn bỏ uống mất thôi. Cái con
Bạc-heng là ta biết tính nó lắm…
– Con Sao-nọi thì cũng thế thôi – bác Thao Phêng bùi ngùi
nói theo. – Có khi nó bỏ cả tuần đấy. Những ngày nó bỏ ăn, ai
Sơn cho nó thêm vài bánh đường, bồi bổ cho nó nhé. Đừng
quên mà nó gầy đi…
Bác Bun-mi đứng lặng hồi lâu rồi tần ngần nói với các chiến
sĩ:
– Lẽ ra tôi chẳng còn điều gì nói thêm với anh em. Anh em
đã biết phải đối xử với bầy voi như thế nào rồi. Nhưng đời làm
việc của con voi dài lắm, chúng còn có thể làm việc được ba,
bốn mươi năm nữa. Rồi anh em sẽ già đi, một lớp quản tượng
mới sẽ thay anh em. Lúc đó đừng quên dặn lại họ những điều
mà anh em đã từng biết.
Tiểu đội trưởng Hưng năm lấy hai tay bác Bun-mi trong hai
tay anh, lắc mãi:
– Bác ơi, chúng tôi hứa làm đúng lời bác dặn. Chúng tôi và
những người sau này thay thế chúng tôi sẽ hết lòng quý trọng
bầy voi, coi bầy voi như đồng đội của mình.
Bác Bun-mi từng thấy các chiến sĩ chăm lo giúp đỡ cho
nhau, từ trong công việc cho tới lúc ăn ngủ, ốm đau. Bác đã
hiểu tình đồng đội là thế nào.
Sau khi dặn các chiến sĩ, bác Bun-mi dắt họ cùng đứng lên
một bục gỗ. Bác xua tay cho mọi người yên lặng:
– Bà con làng Vông-xay! Tôi xin thay mặt bà con, trao ba con
voi này cho anh em bộ đội tình nguyện Việt Nam.
Bác trao ba tập lá “bay lan” và ba cây đòng cho các chiến sĩ.
– Cặp sách và cây đòng để điều khiển chúng đây, anh em hãy
nhận lấy. Từ nay đàn voi không còn xa lạ nữa, chúng là những
người thân của anh em. Mong rằng đàn voi sẽ giúp anh em
được nhiều việc, cùng với anh em lập được nhiều chiến công.
Các chiến sĩ ôm tất cả những thứ đó vào lòng. Tiểu đội
trưởng Hưng sôi nổi nói:
– Bộ đội Tình nguyện cám ơn bà con làng Vông-xay. Bà con
đã tặng anh em những món quà rất quý, giúp anh em hoàn
thành nhiệm vụ. Anh em sẽ nỗ lực cùng bà con đánh đuổi Phalăng, dù phải hy sinh cho nền độc lập của hai nước Việt Lào
cũng không tiếc.
Người làng Vông-xay vỗ tay hò reo. Những người trong dàn
nhạc thì đập bung bung lên mặt trống để hoan nghênh các
chiến sĩ.
Đợi cho tiếng hò reo đã ngớt, bác Bun-mi nói tiếp:
– Anh em phải luôn gửi tin cho làng Vông-xay nhé. Nếu anh
em và đàn voi mà lập được chiến công thì phải gửi ngay tin về.
Bao giờ có dịp thì giong bầy voi cho chúng về thăm làng cũ.
Nói xong, bác đến bên từng con voi, ra lệnh cho quản tượng
tháo xích khỏi chân nó. Phường nhạc nổi nhạc. Trống vỗ bập
bùng hòa với âm thanh dập dìu của những cây khèn và những
chiếc đàn thuyền.
Bác Bun-mi trầm trầm cất giọng hát:
Phỉ phui!
Cái xiềng cái xích
Đem vứt xuống sông
Cho voi thong dong
Về theo chủ mới
Lũ voi sung sướng đạp đạp những cái chân đã được tự do
trong lúc các quản tượng đi theo bác Bun-mi gõ loảng xoảng
vào đống xích và cùng hát theo.
Voi đừng ngại núi
Voi đừng ngại rừng
Theo chủ lên đường
Voi đi đây đó.
Đường xa, gian khổ
Có chủ voi thương
Chớ quản nắng sương
Hết lòng hết sức…
Vào lúc đó, các cô gái làng Vông-xay mang đến cho lũ voi
những thức ăn ngon, thết đãi chúng lần cuối cùng.
Thật là một bữa tiệc to: mỗi con được hai mươi miếng
đường đen, mười quả bí đỏ, một trăm bắp ngô cùng cùi và
nước của hai mươi quả dừa. Đàn voi quơ vòi lên khi nhận quà.
Rồi con nào cũng vội vã hít thức ăn, đưa vào mồm nhai ngon
lành.
Khi chúng ăn xong, các chiến sĩ đóng bành, mời người già
và tất cả lũ trẻ cùng các cô gái trong làng lên lưng voi. Người
ngồi chật ních ba chiếc bành. Nhiều người không có chỗ, phải
đứng lên lưng voi, tay nắm lấy khung bành, hoặc ôm lấy lưng
người đứng trước.
Các chiến sĩ cho voi đi diễu quanh làng mấy vòng. Đàn voi
bước hăm hở, vòi đung đưa, tai không ngừng quạt quạt trong
lúc lũ trẻ và các cô gái vỗ nhịp vào bành, hát vang:
Cái xiềng các xích
Đem vứt xuống sông
Cho voi thong dong
Về theo chủ mới…
Chưa bao giờ làng Vông-xay vui như trong những ngày ấy!
Trừ mấy bữa ăn, hầu như lúc nào cũng thấy mọi người ở ngoài
bãi hội. Thế mà vẫn chưa đủ. Buổi tối, sau lễ diễu voi, người
làng còn tổ chức một đêm “lăm vông”.
Ba bốn chục cây nến trám to bằng bắp tay được buộc chéo
trên những chiếc gậy cắm ở giữa bãi. Bãi hội thật huy hoàng.
Nến cháy rực, tỏa khói và tỏa mùi nhựa thơm ngào ngạt.
Từ những ông bà lão già nua đến các em bé mới chập chững
biết đi, tất cả cùng tới dự tối vui chia tay. Các cô gái lại thay
quần áo mới: họ là những người chủ chốt của đêm hội. Cô nào
cũng mặc bộ xiêm áo đẹp nhất, được ướp hoa từ mấy hôm
trước nên thơm phức.
Nhạc nổi thâu đêm. Từng đợt, từng đợt, các cô gái múa theo
tiếng nhạc, nhịp nhàng đi đến trước mặt các chiến sĩ, đứng lại,
buông tay và cúi đầu mời. Sống ở làng Vông-xay, từng dự biết
bao đêm vui nên các chiến sĩ ai nấy đều đã múa quen. Họ vui vẻ
nhận lời mời, múa với các cô gái hết đợt này đến đợt khác.
Hôm sau, lũ voi được các quản tượng đóng bành và dẫn đến
nhà bác Bun-mi từ sớm. Vòng bạc và các đệm tua đã được cất
đi, các dấu hóa trang được rủa sạch, chúng lại trở thành những
con voi của công việc, của những chuyến đi dài. Chúng phủ
phục một hàng ở trước hiên nhà.
Người làng Vông-xay lần lượt mang quà đến cho các chiến
sĩ. Họ xúm đông quanh lũ voi, đặt lên bành voi đủ thứ: gạo,
thịt, hoa quả để ăn đường, những vật kỷ niệm, từ những bức
tượng nhỏ gọt bằng gỗ mun, những chiếc khèn ghép bằng ống
sậy, những con dao rừng sắc như nước đến những tấm phá,
tấm đệm đầy những đường thêu đẹp mắt. Họ không quên phần
cho lũ voi: có gia đình chất lên bành những bó mía đã chặt
thành từng tấm, dăm ba nải chuối, vài gói đường phên. Trong
lúc chờ đợi các chiến sĩ lên đường, nhiều người cho chúng ăn.
Họ vừa âu yếm đưa thức ăn lên mồm chúng, vừa thì thầm với
chúng những lời cuối cùng.
Khi lũ voi đứng dậy thì đám người trở nên ồn ào. Mọi người
lưu luyến chào những kẻ ra đi và cố nói to để lời chúc của mình
được nghe thấy. Lưu luyến hơn cả là các cô gái, các em nhỏ, là
Khăm-phay, Chăm-pa. Thế là các chiến sĩ đi rồi, làng bản lại
vắng. Các buổi trưa lại trống trải, buồn tênh. Nhưng chẳng thể
giữ họ ở lại được: công việc đang chờ họ.
Khăm-phay dặn, giọng lanh lảnh nổi trên tiếng chào của
mọi người:
– Trông con voi của nhà em cẩn thận nhé! Phải đưa nó về
thăm em luôn đấy.
Cô bé Chăm-pa hỏi:
– Bao giờ các anh đưa đàn voi về thăm làng Vông-xay?
– Mùa me sang năm nhé! – Các chiến sĩ tươi cười, hẹn.
Cô bé nhớ lại những buổi ăn chua và những câu chuyện
từng đem đến cho cô và các bạn của cô bao điều kỳ lạ. Cô hớn
hở nói:
– Nhớ đấy! Mùa hè sang năm mời các anh trở lại ăn chua và
kể chuyện đường xa.
*
Bác Bun-mi, bác Thao Phêng cùng các quản tượng làng
Vông-xay giong ba con voi, tiễn các chiến sĩ lên đường.
Bấy giờ là mùa thu năm 1948. Pha-lăng đang mở những trận
càn quét để ngăn chặn các cuộc tiến công thu đông của bộ đội
Ít-xa-lạ và bộ đội Tình nguyện. Con đường cũ không đi được
nữa, những người quản tượng đưa các chiến sĩ đi về phía đông.
Họ dẫn các chiến sĩ lên tận con đường của các bầy voi hoang
rồi mới trở về.
Con đường rộng lớn ấy chạy dài suốt dọc Trường Sơn. Các
chiến sĩ chỉ việc theo đường, ngược lên phía bắc để trở về căn
cứ.
Có lũ voi, đường về không còn gian nan như khi vượt
Trường Sơn với ông già Cao. Suốt ngày, họ ngồi gà gật trên
bành, mặc cho lũ voi đủng đỉnh bước theo con đường xưa kia
chúng từng quen thuộc. Ban đêm, họ ngừng lại bên một bờ
suối. Mấy bay địch bay lượn suốt đêm, tìm nhũng đốm lửa giữa
rừng. Vì thế các chiến sĩ không ngủ lửa. Họ vun một nệm lá rồi
buộc voi chung quanh.
Lũ voi trở lại rừng hoang, đêm đêm đã bớt ngủ. Chúng thức
tỉnh, thỉnh thoảng lại vươn vòi lên tìm hơi lạ, trông coi giấc
ngủ cho người.
Đường về trót lọt nhưng các chiến sĩ đều không vui. Người
không vui hơn cả là Sơn.
Từ mấy tháng trước, họ đã xếp đặt bao nhiêu dư định. Họ
sẽ giong cả đàn voi tới chào ông già Cao. Trước hết, trên đường
về, họ sẽ ghé thăm bà mẹ và cô gái Lào. Vui biết mấy, buổi gặp
gỡ với những người có ân tình với họ. Họ muốn dành cho
những người ấy đủ chuyện bất ngờ… Lũ voi rầm rập đi vào
làng. “Cái gì thế? Cái gì mà rộn ràng thế?” Bà mẹ và cô gái sẽ
hỏi nhau, rồi chạy ra đứng nhìn ở ngoài sàn… Quản tượng Sơn
hô to… Lũ voi nhịp nhàng quỳ xuống, khua khua vòi lên trời
rồi lại nhịp nhàng đứng lên chào khách… “Phạ ơi! Tưởng
người nào, hóa ra là ai Sơn…” – Cô gái sẽ kêu lên và chạy xuống
sàn đón họ.
Các chiến sĩ sẽ ăn một bữa cơm vui vẻ ở nhà cô gái. Họ sẽ
cùng người làng tổ chức một tối “lăm vông”. Họ sẽ tặng bà mẹ
và cô gái tất cả những món quà mà người làng Vông-xay tặng
cho họ. Họ dự định bao nhiêu điều tốt đẹp. Nhưng Pha-lăng
làm những dự định của họ không thành.
– Chẳng hề gì! – Tiểu đội trưởng Hưng an ủi Sơn. – Thế nào
ta cũng đưa được đàn voi đến chào ông già Cao. Còn bao giờ
bình yên, ta sẽ đưa đàn voi tới đó.
Phải, bao giờ bình yên… Các chiến sĩ sẽ đưa đàn voi tới
thăm bà mẹ và cô gái Lào. Họ sẽ thực hiện mọi điều mà họ
từng xếp đặt.
Hà Nội tháng 7 năm 1976
* Nậm Khoỏng: sông Mêkông.
* Hoa Chămpa: hoa đại.
* Cuối thế kỉ 18, đề đốc Lê Trực hưởng ứng chiếu Cần vương
của vua Hàm Nghi, dấy quân chống Pháp xâm lược ở vùng
Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình.
* Một thứ vải đàn ông quấn quanh hông như váy.
* Ông chủ tịch.
* Không biết múa. Không biết.
* Bộ đội Tình nguyện Việt Nam.
* Quan lớn
* Người Lào ăn Tết vào giữa tháng tư dương lịch.
* Lào Việt đoàn kết.